Hội chứng Stevens - Johnson Syndrome (SJS) hay những nguy cơ từ thuốc; Việt Nam điều trị thành công dị ứng thuốc bằng giảm mẫn cảm: Hy vọng cho bệnh nhân dị ứng thuốc;Lưu ý khi dùng thuốc acyclovir chống virus; Phòng tránh sai sót y khoa - Bệnh nhân cũng cần biết;Xuất hiện thuốc kháng sinh Zinnat giả;Bộ Y tế yêu cầu truy tìm và xử lý thuốc Zinnat giảHội chứng
Stevens - Johnson Syndrome (SJS) hay những nguy cơ từ thuốcĐiều hiển nhiên khi mắc bệnh thì ai cũng phải dùng đến thuốc, song mỗi khi sử dụng thuốc, bạn nên nhớ rằng bạn có thể phải đối mặt với những nguy cơ mà ngay cả các bác sĩ cũng khó có thể lường trước. Những trường hợp phản ứng cơ địa hiếm gặp trong sử dụng thuốc điều trị bệnh chính là những mối đe dọa đáng sợ đối với người bệnh chứ không chỉ có bệnh tật. Trường hợp của cô gái 20 tuổi có tên là Veronica Zenkner đến từ vùng Dekalb - nước Mỹ đã khiến cho các nhà khoa học nước này thực sự lo ngại về hiện tượng bệnh nhân phản ứng cơ địa mãnh liệt với thuốc.
Sau lần phản ứng thuốc kỳ lạ này, cô gái đã mắc phải một hội chứng hiếm gặp có tên là Stevens - Johnson Syndrome (một hội chứng cơ thể phản ứng thuốc nguy hiểm có thể dẫn tới tử vong được phát hiện lần đầu tiên trên thế giới bởi nhà khoa học Stevens Johnson). Hậu quả của lần phản ứng thuốc quá mãnh liệt đã dẫn tới việc Zenkner đã bị mù mắt trái và để lại những hậu quả khủng khiếp mà những người bình thường khó có thể tưởng tượng. Mặc dù bị mù mắt trái, song mỗi lần tiếp xúc với ánh sáng lại mang đến cho Zenkner những cơn đau đớn. Chính vì vậy, cô gái này luôn phải đeo kính râm mỗi ngày.
Câu chuyện bắt đầu từ những viên thuốc
7 năm về trước, mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường với cô bé 13 tuổi Zenkner. Giống như bao đứa trẻ bình thường khác, Zenkner vẫn phát triển bình thường, sức khỏe tốt và chưa bao giờ phải sử dụng tới thuốc. Cho tới một ngày, 2 viên thuốc nhỏ đã vĩnh viễn thay đổi cuộc đời cô. Sau 2 ngày bị hành hạ bởi những cơn đau đầu do căng thẳng trong học tập, Zenkner đã uống hai viên thuốc ibuprofen với hy vọng làm giảm được cơn đau. Tuy nhiên, bản thân cô bé và gia đình không hề biết về hiện tượng phản ứng phụ mà thuốc có thể gây ra. Ban đầu, Zenkner phải đối mặt với chứng dị ứng và phải nhập viện. Sau đó, các bác sĩ điều trị phát hiện Zenkner có các biểu hiện của hội chứng Stevens Johnson Syndrome (SJS) do phản ứng với thuốc ibuprofen mà cô đã uống khi bị đau đầu. Hội chứng phản ứng thuốc này đã phá hủy toàn bộ lớp ngoài của da và lớp màng nhầy bao phủ con ngươi trong mắt, hay bên ngoài môi. Nó thậm chí còn tấn công cả các cơ quan bên trong cơ thể như phổi và sâu trong mắt gây ra tình trạng mù lòa cho người bệnh.
Theo lời kể lại của bệnh nhân Zenkner: sau khi dùng thuốc, buổi tối ngày hôm đó, cô bắt đầu có các biểu hiện lạ: da nổi mẩn ngứa, đau rát, khó chịu và sốt cao. Ngay khi được chuyển tới Bệnh viện Trường đại học Loyola - nơi cô được chẩn đoán là bị nhiễm độc hoại tử biểu bì da (TEN - Toxic Epidermal Necrolysis), các bác sĩ đã xác định: bệnh nhân Zenkner đã có các biểu hiện của hội chứng SJS. Đây là hội chứng hiếm gặp với tỉ lệ chiếm từ 2-7 trường hợp/1 triệu người. Tuy nhiên, các nhà khoa học Mỹ dự báo tỉ lệ này có thể tăng cao hơn bởi tình trạng lạm dụng thuốc đang ngày càng mất kiểm soát. Ngoài trường hợp của Zenkner, một bệnh nhân khác sống tại Mỹ tên là Julie hiện 17 tuổi cũng từng được phát hiện mắc phải hội chứng phản ứng thuốc SJS khi cô bé được điều trị chứng co giật bằng thuốc ngủ phenobarbital lúc mới được 10 tháng tuổi. Bệnh nhân Julie hiện cũng phải chịu ảnh hưởng là mù mắt phải, thị lực mắt trái suy giảm nghiêm trọng.
Nguy hiểm từ hiện tượng phản ứng thuốc
Nhìn chung mọi loại hóa chất chữa bệnh đều có thể gây ra các phản ứng phụ khi sử dụng. Tùy vào thể trạng và cơ địa của mỗi người, dựa vào việc nghiên cứu tiền sử bệnh lý của bệnh nhân, các bác sĩ có thể biết được bệnh nhân có thể phản ứng với những thành phần nào của thuốc để từ đó kê đơn thuốc hợp lý. Tuy nhiên, họ chỉ có thể nhận biết được một số phản ứng phổ biến, thông dụng thường xảy ra, chứ không phải là tất cả. Trong một số trường hợp (khoảng gần một nửa bệnh nhân được điều trị), ngay cả các bác sĩ cũng không thể lường hết những phản ứng bất thường khác có thể xảy ra. Đôi khi tình trạng nhiễm khuẩn đột ngột cũng có thể là nguyên nhân dẫn tới phản ứng thuốc ngoài mong muốn.
Hầu hết các loại thuốc đều có thể gây ra phản ứng phụ, song theo nghiên cứu, phần lớn các thuốc gây phản ứng phụ tập trung vào các loại thuốc có thành phần thuốc kháng sinh như: pencillin, sulfonamides và các thuốc chống viêm như: aspirin, naproxen, hoặc như loại thuốc mà bệnh nhân Zenkner đã sử dụng là ibuprofen. Một vài loại thuốc có thể gây ra hiện tượng phản ứng thuốc phổ biến, chẳng hạn như ibuprofen từng được cảnh báo là có thể gây ra phản ứng phụ bao gồm: dị ứng với các nốt sần, mẩn đỏ trên da mặt. Song cũng có những phản ứng khác mà khoa học chưa thể nghiên cứu hết, chẳng hạn như hội chứng SJS mà bệnh nhân Zenkner đã mắc phải.
Ngoài ibuprofen, Cơ quan Quản lý thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) còn đưa ra cảnh báo về một số loại thuốc khác cũng có khả năng gây phản ứng phụ là hội chứng SJS bao gồm các loại thuốc chống co giật - anticonvulsant lamictal (lamotrogine).
Hãy thận trọng khi dùng thuốc
Mặc dù mọi người luôn được khuyến cáo cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ trước khi sử dụng thuốc và đọc kỹ hướng dẫn sử dụng, song việc sử dụng hóa chất chữa bệnh vẫn luôn là một “con dao hai lưỡi”. Những phản ứng thuốc rất dễ xảy ra và không ai có thể lường trước ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe thể chất của con người. Trong các trường hợp sử dụng thuốc điều trị bệnh, các bác sĩ khuyến cáo bệnh nhân khi phát hiện có các dấu hiệu lạ như: nổi mẩn, dị ứng, buồn nôn, đắng họng hoặc các dấu hiệu bất thường khác cần nhanh chóng đến các cơ sở y tế để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hậu quả mà hiện tượng phản ứng thuốc có thể xảy ra.
Sốc phản vệ do thuốc?
Sốc phản vệ là một trong những phản ứng dị ứng cấp tính nguy hiểm nhất, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ hô hấp, tuần hoàn và có thể nhanh chóng đe dọa tính mạng người bệnh nếu không được xử trí kịp thời. Sốc phản vệ có thể gây ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như thuốc, thức ăn, nọc côn trùng, các yếu tố vật lý và hoá học…, trong đó thuốc là nhóm nguyên nhân rất thường gặp, đặc biệt ở nước ta khi việc sử dụng thuốc và hoá chất của người dân còn chưa được quản lý một cách chặt chẽ.
Tất cả mọi loại thuốc và tất cả các đường dùng thuốc đều có thể gây ra sốc phản vệ ở những cá thể nhạy cảm, trong đó gặp nhiều nhất là các loại kháng sinh (đặc biệt kháng sinh nhóm penicillin), các thuốc chống viêm không steroid, các thuốc cản quang, thuốc gây tê, gây mê, vitamin C, các loại dịch truyền và chế phẩm máu… Mỗi năm ở Mỹ có khoảng 1500 ca sốc phản vệ bị tử vong và 75% trong số đó là do các kháng sinh nhóm penicillin.
Trên lâm sàng, sốc phản vệ do thuốc (thường được gọi là sốc thuốc) thường xuất hiện sau khi dùng thuốc từ vài giây đến vài chục phút, tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm của cơ thể và đường dùng thuốc, trong đó sốc phản vệ do thuốc tiêm truyền thường xuất hiện sớm hơn. Sau khi tiếp xúc với thuốc, người bệnh thường có cảm giác ớn lạnh, hoảng hốt, lo sợ, sau đó dần xuất hiện các triệu chứng ở da, niêm mạc (nóng bừng, nổi ban đỏ ngứa, phù mắt, phù môi, ngạt mũi); ở hệ hô hấp (khó thở, thở rít); ở hệ tiêu hoá (đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy) và hệ tim mạch (đau ngực, đau đầu, chóng mặt, ngất, tái nhợt, tụt huyết áp).
Những bệnh nhân có cơ địa dị ứng hoặc có tiền sử đã bị sốc phản vệ cũng cần phải được tư vấn và giáo dục để có thể nhận biết được các dấu hiệu sớm của sốc phản vệ do thuốc, từ đó có những biện pháp can thiệp kịp thời.
Việt Nam điều trị thành công dị ứng thuốc bằng giảm mẫn cảm: Hy vọng cho bệnh nhân dị ứng thuốc
Dị ứng thuốc có thể gây nhiều phản ứng phụ ảnh hưởng đến quá trình điều trị của bệnh nhân, thậm chí nếu dị ứng nặng có thể gây tử vong. Mới đây các bác sĩ ở Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng (BV Bạch Mai) đã thành công với phương pháp giảm mẫn cảm nhanh. Dị ứng thuốc vẫn là nỗi lo sợ của nhiều người. Nỗi lo sợ ấy lại càng lớn khi bạn buộc phải dùng chính loại thuốc mà mình bị dị ứng để điều trị bệnh. Song mới đây, các bác sĩ ở Trung tâm dị ứng miễn dịch lâm sàng (Bệnh viện Bạch Mai) đã có lời giải cho bài toán khó này.
Ca bệnh hiếm gặp
Chiều thứ sáu, ngày 1/4, Trung tâm dị ứng miễn dịch lâm sàng Việt Nam (Bệnh viện Bạch Mai) tiếp nhận bệnh nhân Dương Thị Thanh Nga, 39 tuổi, (Yên Phụ, Tây Hồ, Hà Nội) bị nhiễm trùng đường hô hấp và cần dùng kháng sinh ceftriaxon ngay. Tuy nhiên, nghe tiền sử của bệnh nhân, các bác sĩ thấy băn khoăn: Bệnh nhân có tiền sử hen phế quản từ nhỏ (đang điều trị dự phòng bằng seretide 50/250, ngày 2 lần) đã nhiều lần bị dị ứng thuốc kháng sinh phải đi cấp cứu. Năm 2007, bệnh nhân đã bị sốc phản vệ zinnat phải điều trị tại Khoa cấp cứu (Bệnh viện Bạch Mai). Năm 2008, bệnh nhân bị dị ứng với ceftriaxone (biểu hiện mày đay, phù Quincke). Từ năm 2008 đến nay, khi cần dùng kháng sinh thì thuốc duy nhất chị dùng được là fortum. Đồng thời, mỗi lần cần dùng kháng sinh phải vào bệnh viện tiêm và theo dõi ngày 3 lần.
Công cuộc vật lộn với thuốc điều trị bệnh của chị Nga tưởng như đi vào ngõ cụt.
Quyết định táo bạo
Để điều trị nhiễm trùng đường hô hấp cho chị Nga, thuốc kháng sinh duy nhất được chỉ định lại chính là loại kháng sinh mà chị bị dị ứng mạnh, đó là ceftriaxon. Phải làm sao để bệnh nhân khỏi bệnh khi buộc phải dùng loại thuốc mà mình bị dị ứng? Nếu dùng thuốc ceftriaxon để điều trị rất có thể bệnh nhân sẽ tử vong hoặc bị dị ứng nặng? Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra cho kíp làm việc hôm đó, mà đứng đầu là PSG.TS. Nguyễn Văn Đoàn, Giám đốc Trung tâm dị ứng miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Bạch Mai.
|
PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn (bên phải ảnh) đang chỉ đạo kíp bác sĩ điều trị cho bệnh nhân Nga. |
PSG.TS. Nguyễn Văn Đoàn cho biết, để điều trị những bệnh nhân dạng này, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng phương pháp điều trị giảm mẫn cảm với thuốc và đã đem lại không ít lợi ích cho những người bệnh bị dị ứng thuốc. Tuy nhiên, đây lại là phương pháp còn rất mới mẻ ở Việt Nam và chúng ta chưa từng thực hiện.
Song tính mạng người bệnh là trên hết. Một cuộc hội thảo ngắn đã diễn ra và cuối cùng, PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn đã đưa ra một quyết định táo bạo: Phải điều trị cho bệnh nhân bằng phương pháp giảm mẫn cảm nhanh qua đường tĩnh mạch. Liệu pháp này đưa một lượng thuốc tăng dần vào cơ thể người bệnh, giúp người bệnh quen dần và trở nên không còn dị ứng với thuốc. Tuy quyết định chỉ trong giây phút, nhưng nhóm thầy thuốc (PGS. Đoàn, BS. Hiếu, BS. Đĩnh) đã phải làm việc với nhau nhiều tháng trước đây: thảo luận, đọc tài liệu, tham khảo ý kiến chuyên gia, lập kế hoạch, chọn bệnh nhân, chuẩn bị địa điểm, giấy tờ thủ tục, phương tiện cấp cứu…
PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn chỉ định, bệnh nhân vẫn phải dùng ceftriaxon nhưng theo liệu pháp giảm mẫn cảm nhanh, mục đích là bệnh nhân Nga được dùng ceftriaxon là thuốc đã bị dị ứng nhưng phải tiếp tục dùng nó để điều trị bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trong thời gian ngắn và không phải vào Khoa cấp cứu. Được truyền thuốc bằng bơm tiêm điện đường tĩnh mạch, bệnh nhân được điều trị gần 12 giờ bằng phương pháp giảm mẫn cảm, dùng bơm tiêm với 6 loại dung dịch với các nồng độ thuốc khác nhau được pha.
Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn, quá trình này phải được theo dõi sát sao trong phòng cấp cứu của Trung tâm với chế độ đặc biệt: 2-1. Có nghĩa là một bác sĩ, một điều dưỡng và một bệnh nhân. Bệnh nhân được theo dõi tất cả các biểu hiện bất thường dù là nhỏ nhất cả cơ năng và thực thể như: có khó thở không, khó chịu gì không, có xuất hiện ban đỏ trên da trong quá trình truyền không... nhịp tim, nhịp thở và SPO2 (dấu hiệu sinh tồn) được theo dõi liên tục qua monitor.
Và thành công bất ngờ
Bằng phương pháp giảm mẫn cảm nhanh (từ 18 giờ thứ sáu ngày 1/4 đến 6 giờ ngày 2/4/2011 - thứ bảy), bệnh nhân an toàn tuyệt đối. Sau 12 giờ điều trị và sau gần 3 ngày theo dõi, bệnh nhân đã được giảm mẫn cảm thành công và đã được tiêm tĩnh mạch ceftriaxone một cách bình thường. Vậy là quyết định của PGS.TS. Đoàn đã rất đúng lúc, kịp thời và đã cứu được một bệnh nhân thoát khỏi nỗi lo sợ vì dị ứng thuốc. Đây thực sự là một phép màu, giúp cho bệnh nhân dị ứng thuốc có cơ hội được điều trị bệnh.
Trao đổi với chúng tôi, PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn cho biết, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam, lần đầu tiên trong chuyên ngành dị ứng đã trực tiếp tiến hành giảm mẫn cảm nhanh cho bệnh nhân có tiền sử dị ứng với thuốc mà bệnh nhân vẫn dùng được loại thuốc này để điều trị, ước mơ của ông và đồng nghiệp đã được thực hiện. Đây là một bước ngoặt trong chuyên ngành dị ứng, giúp cho ngành dị ứng Việt Nam dần có chỗ đứng trong ngành dị ứng thế giới.
PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn khuyên, những người có tiền sử dị ứng thuốc cần thận trọng mỗi lần sử dụng dược phẩm và có thể tới các cơ sở y tế chuyên khoa về dị ứng - miễn dịch - lâm sàng để khám, tư vấn về việc có nên thực hiện giảm mẫn cảm với thuốc. PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn cho biết thêm, Trung tâm dị ứng miễn dịch lâm sàng sẽ tiếp tục triển khai giảm mẫn cảm với các thuốc khác (ngoài kháng sinh) như: aspirin, plavix, hóa chất điều trị ung thư...
Lưu ý khi dùng thuốc acyclovir chống virus
Acyclovir là một thuốc chống virut (nên chỉ dùng trong các trường hợp nhiễm virut, không dùng cho các bệnh nhiễm khuẩn). Thuốc được dùng trong các trường hợp: nhiễm virut Herpes simplex týp 1 và 2 ở da và niêm mạc, viêm não do Herpes simplex virus, điều trị bệnh zona, Herpes sinh dục, bệnh thủy đậu. Khi điều trị bằng acyclovir phải được bắt đầu càng sớm càng tốt khi có dấu hiệu triệu chứng của bệnh. Thức ăn không làm ảnh hưởng đến hấp thu của thuốc nên có thể uống thuốc không phụ thuộc vào bữa ăn.
Tuy nhiên, khi dùng thuốc cần chú ý tới những tác dụng bất lợi không mong muốn do thuốc gây ra. Khi dùng đường uống (dùng trong thời gian ngắn), người bệnh có thể gặp triệu chứng buồn nôn, nôn; dùng kéo dài có thể gây tiêu chảy, đau bụng, nổi ban, nhức đầu (có khoảng dưới 5% người bệnh dùng thuốc kéo dài gặp các hiện tượng này).  |
| Hình ảnh zona. |
Ở đường tiêm truyền tĩnh mạch, thường gặp nhất là viêm như viêm tĩnh mạch ở vị trí tiêm. Ít gặp hơn là các phản ứng thần kinh hoặc tâm thần (ngủ lịm, run, lẫn, ảo giác, cơn động kinh), kết tủa thuốc ở ống thận dẫn đến suy thận cấp, tăng nhất thời urê và creatinin, enzym gan trong huyết thanh, ban da, buồn nôn…
Đối với dạng kem bôi, có khi gặp cảm giác nóng bỏng (nhưng mang tính chất nhất thời) hoặc nhói ở vị trí bôi kèm theo ban đỏ nhẹ khi khô. Một số người dùng thuốc mỡ bôi mắt (điều trị các bệnh về mắt do virut) thấy nhói nhẹ ngay khi bôi hoặc bị viêm giác mạc chấm, viêm mi mắt, viêm kết mạc. Tuy nhiên không cần ngừng thuốc, các hiện tượng này sẽ khỏi mà không để lại di chứng.
Thuốc được dùng thận trọng đối với các trường hợp: người suy thận (liều dùng phải điều chỉnh theo độ thanh thải creatinin, khi tiêm truyền tĩnh mạch không được tiêm nhanh hoặc tiêm với một lượng lớn mà cần tiêm truyền tĩnh mạch chậm để tránh kết tủa thuốc trong thận. Nguy cơ suy thận tăng lên nếu dùng đồng thời với các thuốc độc cho thận); người mang thai (chỉ nên dùng thuốc khi lợi ích điều trị hơn hẳn rủi ro có thể xảy ra với bào thai); người cho con bú (thuốc được bài tiết qua sữa mẹ, khi dùng đường uống, nên thận trọng khi dùng thuốc ở người cho con bú).
Phòng tránh sai sót y khoa - Bệnh nhân cũng cần biết
Sai sót y khoa là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến thương tổn nặng thêm và gây tử vong. Theo một báo cáo gần đây của Viện Y khoa Mỹ, ước tính có tới 98.000 trường hợp tử vong trong các bệnh viện ở Mỹ mỗi năm là do hậu quả của sai sót y khoa.
Sai sót y khoa xảy ra khi một công việc được hoạch định như là một phần của quy trình chăm sóc y tế đã không được thực hiện đúng. Vậy người bệnh có thể làm những gì? Cách quan trọng nhất có thể giúp ngăn chặn các sai sót là người bệnh nên là một thành viên tích cực của đội ngũ chăm sóc sức khỏe cho chính mình. Những điều người bệnh nên làm là:
Khi dùng thuốc
-Hãy chắc chắn rằng các bác sĩ đã biết rõ về tất cả mọi thứ thuốc mà mình đang dùng, bao gồm thuốc kê toa, thuốc không kê toa, các chất bổ sung dinh dưỡng như vitamin và thảo dược. Ít nhất một lần mỗi năm, bệnh nhân nên mang tất cả các loại thuốc mà mình đang dùng đến để bác sĩ kiểm tra. Việc này tạo điều kiện để bác sĩ cập nhật hồ sơ bệnh lý, giúp người bệnh có được chất lượng chăm sóc tốt hơn.
-Hãy chắc chắn rằng bác sĩ điều trị đã nắm vững tất cả các tiền sử dị ứng và phản ứng phụ mà bệnh nhân đã có với thuốc. Điều này có thể giúp người bệnh tránh dùng một loại thuốc có thể gây tổn hại cho mình.
-Khi bác sĩ kê một đơn thuốc, người bệnh cần chắc chắn rằng mình có thể đọc được nó. Nếu người bệnh không đọc được chữ viết tay của bác sĩ thì dược sĩ có thể cũng sẽ không đọc được.
-Hãy yêu cầu được cung cấp thông tin dễ hiểu về thuốc mà mình sử dụng, khi thuốc được bác sĩ chỉ định và khi nhận thuốc từ dược sĩ. Các câu hỏi cần được đặt ra là: Các loại thuốc dùng để làm gì? Dùng thuốc ra sao và dùng trong bao lâu? Các tác dụng phụ tiềm tàng của thuốc? Cần phải làm gì nếu chúng xảy ra? Thuốc này có an toàn khi phối hợp chung với các loại thuốc khác hiện đang dùng? Khi dùng thuốc nên tránh ăn hoặc uống các thực phẩm nào, tránh các hoạt động gì? Khi nhận thuốc từ hiệu thuốc, hãy hỏi: đây có đúng là loại thuốc mà bác sĩ đã chỉ định cho tôi?
-Khi toa thuốc hoặc hướng dẫn sử dụng thuốc tối nghĩa, hãy chủ động hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ.
-Nên hỏi dược sĩ về các dụng cụ tốt nhất để đo lường thuốc uống dạng lỏng. Có nhiều người không hiểu đúng cách lường các loại thuốc dạng lỏng. Ví dụ, nhiều người dùng muỗng cà phê ở gia đình, kích thước thường không bằng muỗng cà phê thực sự để lường chất lỏng. Các dụng cụ đặc biệt, như những ống tiêm được đánh dấu, giúp mọi người đo liều lượng thuốc hơn. Tốt nhất là người bệnh nên được hướng dẫn sử dụng các dụng cụ này.
-Người bệnh nên yêu cầu được cung cấp các thông tin bằng văn bản về những tác dụng phụ mà thuốc có thể gây ra. Nếu biết trước những gì có khả năng xảy ra, ta sẽ được chuẩn bị để đối phó tốt hơn. Bằng cách đó, bệnh nhân có thể báo cáo vấn đề ngay lập tức và nhận được sự giúp đỡ trước khi nó diễn biến xấu hơn.
Khi điều trị nội trú
-Nếu cần phải lựa chọn địa điểm đến khám và điều trị, hãy chọn một bệnh viện nơi có nhiều bệnh nhân đến để thực hiện thủ thuật hay phẫu thuật mà mình đang cần.
-Nếu đang được điều trị nội trú, hãy hỏi tất cả các nhân viên y tế và những người tiếp xúc trực tiếp với mình xem họ đã rửa tay chưa? Rửa tay là một biện pháp quan trọng để ngăn chặn sự lây lan của nhiễm trùng tại các bệnh viện.
-Khi đang được tiến hành thủ tục xuất viện, hãy yêu cầu bác sĩ giải thích kỹ kế hoạch điều trị sẽ phải thực hiện ở nhà. Điều này bao gồm việc hiểu rõ về các loại thuốc men sẽ dùng và khi nào thì có thể trở lại với hoạt động thường ngày. Nghiên cứu cho thấy là vào thời điểm xuất viện, bác sĩ thường đánh giá cao hơn thực tế những gì bệnh nhân đã hiểu về những điều mà họ nên hay không nên làm khi trở về nhà.
Khi phải phẫu thuật
-Nếu phải phẫu thuật, nên chắc chắn rằng người bệnh, bác sĩ điều trị, và bác sĩ phẫu thuật đều nhất trí và hiểu rõ ràng, chính xác, cụ thể về những việc sẽ được thực hiện.
-Những điều có thể thực hiện thêm
-Hãy nói lên những điều mình còn thắc mắc hoặc quan tâm. Bệnh nhân có quyền đặt cho bất cứ ai những câu hỏi liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe của mình.
-Hãy chắc chắn rằng có một người nào đó, như bác sĩ riêng chẳng hạn, chịu trách nhiệm chung về việc chăm sóc sức khỏe của mình. Điều này đặc biệt quan trọng khi bệnh nhân có nhiều vấn đề về sức khỏe hoặc đang nằm viện.
-Hãy chắc chắn rằng tất cả các chuyên viên y tế tham gia chăm sóc sức khỏe cho mình đã có đầy đủ những thông tin quan trọng về mình. Đừng cho rằng mọi người đều đã biết tất cả mọi thứ họ cần phải biết.
-Nhờ một thành viên trong gia đình hoặc bạn bè ở lại và đại diện cho mình (người này có thể giúp bệnh nhân làm mọi việc và nói thay cho họ).
-Ngay cả khi cho rằng chưa cần đến sự giúp đỡ, bệnh nhân vẫn có thể cần đến họ sau này.
-Nhận thức được rằng “nhiều hơn” không phải luôn luôn tốt hơn.
-Hãy tìm hiểu tại sao một xét nghiệm hoặc một phương pháp điều trị lại cần thiết và hữu ích. Có thể lại là tốt hơn nếu không thực hiện nó.
-Hãy quan tâm hỏi về các kết quả xét nghiệm.
-Hãy tìm hiểu về bệnh lý và phương pháp điều trị bằng cách yêu cầu bác sĩ và điều dưỡng cung cấp cho mình những kiến thức và bằng cách sử dụng các nguồn thông tin khác đáng tin cậy.
-Trên đây là những điều mà người bệnh cần phải quan tâm đóng góp để kết quả điều trị được tốt hơn và giảm mức độ rủi ro, sai sót xuống mức thấp nhất.
Xuất hiện thuốc kháng sinh Zinnat giả
Phó cục trưởng Cục Quản lý dược Nguyễn Văn Thanh vừa có thông báo trên thị trường đã xuất hiện thuốc kháng sinh Zinnat giả. Theo đó, Cục Quản lý dược yêu cầu không mua bán, kinh doanh và sử dụng thuốc Zinnat viên 500 mg, trên nhãn ghi LOT: C463051, MANF D 17-02-10, EXP 02-13, GlaxoSmithKline, trên nhãn phụ ghi DNNK: Công ty cổ phần dược liệu TW 2 TP.HCM, có các dấu hiệu: cụm từ “Rx- thuốc bán theo đơn” trên thuốc thật in bằng loại chữ in thường đậm, ở thuốc giả là chữ in thường không đậm.
Ở thuốc thật, cụm chữ “ZIN/SV0703/V1”, trong đó chữ V được in cách điệu, mảnh hơn các chữ thông thường, trong khi ở thuốc giả nét chữ V tương tự các chữ bình thường. Cục Quản lý dược cũng yêu cầu các địa phương kiểm tra và thu hồi thuốc giả kể trên, báo cáo về Cục Quản lý dược.
 |
Thuốc giả (dưới) và thuốc thật (trên) |
Theo thông báo của Cục Quản lý dược, thuốc giả kể trên được phát hiện trên thị trường Hà Nội và khi kiểm nghiệm tại Viện Kiểm nghiệm thuốc T.Ư đã không có phản ứng định tính của Cefuroxim axetil, tức là thuốc giả. Zinnat là sản phẩm của Hãng dược GSK, là loại kháng sinh thông dụng và đắt tiền trên thị trường hiện nay.
Bộ Y tế yêu cầu truy tìm và xử lý thuốc Zinnat giả
Ngày 5-5, Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) đã có công văn gửi sở y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục Quân y (Bộ Quốc phòng), Cục Y tế (Bộ Công an), Cục Y tế giao thông vận tải (Bộ Giao thông Vận tải) về việc xử lý thuốc Zinnat giả.
Theo Viện Kiểm nghiệm thuốc TƯ, thuốc Zinnat® tablets 500mg (trên nhãn ghi: LOT: C463051, MANF D 17-02-10, EXP 02-13, Glaxo Operations UK Limited United Kingdom; tem nhập khẩu ghi: DNNK: Công ty cổ phần Dược liệu TƯ 2 TP Hồ Chí Minh) qua kiểm nghiệm không có phản ứng định tính của Cefuroxim axetil. Kết quả này chứng tỏ đây là thuốc giả.
Chi cục Quản lý thị trường (Sở Công thương Hà Nội) cũng thông báo đã phát hiện thuốc Zinnat giả trên thị trường. Đặc điểm của hộp thuốc giả: phần đầu của hộp thuốc nhìn nghiêng, ô giấy mờ có một cạnh nằm ngang bằng mặt dưới của cụm từ "comprimés 500mg" (với thuốc thật, ô giấy mờ có một cạnh nằm ngang bằng mặt trên của cụm từ "comprimés 500mg"); cụm từ "Rx Thuốc bán theo đơn" là chữ in thường, không đậm (thuốc thật là chữ in thường đậm); cụm chữ - số "ZIN/SV0703/V1" trên nhãn phụ thì chữ V cách điệu có nét chữ tương tự như các chữ cùng cụm từ (thuốc thật chữ V cách điệu có nét mảnh hơn so với các chữ cùng cụm từ).
Để bảo đảm an toàn cho người sử dụng, Cục Quản lý dược đề nghị các cơ sở kinh doanh, sử dụng thuốc không được buôn bán, sử dụng thuốc Zinnat® tablets 500mg như nêu trên; sở y tế các tỉnh, thành phố, ngành tăng cường kiểm tra, giám sát việc kinh doanh, sử dụng thuốc nhằm kịp thời phát hiện, truy tìm nguồn gốc của thuốc giả và xử lý, xử phạt nghiêm hành vi vi phạm các quy định hiện hành về nhập khẩu, buôn bán, sử dụng thuốc.