Thuốc kháng histamine (anti-histamine) là một loại thuốc dùng để ngăn chặn tác dụng của một chất có trong máu có tên là histamin. Hoạt động chính của histamin liên quan đến miễn dịch. Nó được chế tiết ra khi cơ thể tiếp xúc với các dị nguyên. Các dị nguyên là những chất mà lúc bình thường không gây hại, chẳng hạn như phấn hoa, nhưng nó có thể gây ra các phản ứng quá mẫn hệ miễn dịch ở một số người. Histamin cũng có các tác dụng khác ở khắp cơ thể, chẳng hạn như làm co và dãn các mạch máu và co cơ à kháng histamin ngăn chặn histamin thực hiện những phản ứng trên.
Thuốc kháng histamine thường được dùng để điều trị các phản ứng dị ứng, một số loại còn được dùng để điều trị nhức đầu migraine, ...Kháng histamin có dạng thuốc viên, siro, kem thoa, dạng tiêm. Những thuốc kháng histamine loại cũ có khuynh hướng gây ra tình trạng lơ mơ, uể oải, buồn ngủ và hiếm khi gây ra một số loạn nhịp nguy hiểm như nhịp nhanh thất, có thể dẫn đến gây chết người. Với những tiến bộ gần đây, những loại kháng histamin mới ít gây buồn ngủ hơn, do đó không cần phải sử dụng chúng thường xuyên.
Ngứa và mày đay không phải là bệnh mà là triệu chứng của một bệnh nào đó, phần lớn là xuất phát bệnh nội khoa và ký sinh trùng, triệu chứng có khi cấp tính, nhưng nhiều trường hợp diễn tiến mạn tính, nên thuốc “chống dị ứng” được dùng rất nhiều - chính đó là các thuốc kháng histamine. Vì ý niệm thuốc này dùng rất an toàn và dường như không cần đến đơn thuốc bác sĩ, nên thuốc được sử dụng ngày càng phổ biến và rộng rãi, đôi khi một số cá nhân dùng “bừa bãi và lạm dụng”, có thể dùng tháng này qua tháng nọ và năm này qua năm khác, ngay các thầy thuốc điều trị các bệnh lý về da hoặc chuyên khoa ký sinh trùng cũng lạm dụng và dùng không đúng chỉ định cho bệnh nhân mà không cần quan tâm đến nguyên nhân gây ngứa đó hoặc mày đay trường diễn như vậy là do cơ chế nào và tác nhân gì, cứ khi bệnh nhân than phiền ngứa thì cứ đặt bút cho thuốc kháng histamine (loratidine hoặc cetirizine được kê nhiều nhất) với số lượng viên lớn và trong thời gian dài.
Chúng tôi đã tiếp nhận hàng trăm bệnh nhân có biểu hiện ngứa hoặc mày đay mạn tính được các bác sĩ điều trị hoặc là bệnh da hoặc là bệnh ký sinh trùng kê đơn lên đến gần 150 viên trong vòng 6 tháng, song bác sĩ cứ kê đơn trong khi bênh nhân cứ hết thuốc lại bị ngứa và nguyên nhân gây ngứa hoặc mày đay vẫn cứ tồn tại. Đành rằng một số người cho rằng bệnh da liễu là bệnh mạn tính và bệnh nhân sẽ phải thường xuyên gặp bác sĩ, nhưng may thay số bệnh nhân ngứa do ký sinh trùng cũng không ít, trong khi 90% bệnh do ký sinh trùng là chữa khỏi hoàn toàn, điều đó có nghĩa dấu chứng ngứa không còn lo ngại nữa, nếu như thầy thuốc làm đúng chức năng và trách nhiệm của mình, thận trọng và cẩn thận trong khai thác bệnh sử thì vấn đề này sẽ giảm đi gánh nặng dung nạp một lượng thuốc kháng histamine quá lớn mà độc hại cho một số cơ quan trong cơ thể. Đó là chưa kể đến quá trình tương tác với một số thuốc khác khi dùng chung với kháng histamine, chẳng hạn antihistamine mizolastine có thể tương tác với các thuốc khác gây nên rối loạn nhịp tim nghiêm trọng, cẩn trọng khi dùng thuốc mà uống chất có cồn có thể gây tăng hiệu ứng buồn ngủ của thuốc.
Điểm qua cơ chế tác dụng của thuốc kháng histamine: khi có một chất nào đó tiềm năng có hại và không biết rõ ràng đi vào cơ thể chúng ta, hệ thống miễn dịch sẽ hoạt động lại bẳng cách khởi động một số cách để bảo vệ chúng ta (gọi là đáp ứng miễn dịch). Histamine là một trong những chất ly giải trong quá trình đáp ứng miễn dịch. Công việc của nó là giúp các mô tổn thương lành lại, khi làm điều này thì nó lại gây sưng phồng, ngứa và đỏ. Nếu chúng ta bị dị ứng với một chất nào đó, cơ thể chúng ta sẽ đáp ứng lại và tiết ra histamine. Nếu vậy thì antihistamine làm theo cơ chế là “block” tác động của histamine, làm lắng dịu các phản ứng dị ứng xảy ra.
Một số tên thuốc kháng histamine thông thường
Tên thuốc Generic | Tên thuốc thương mại hay biệt dược (Brand names) |
Nhóm thuốc không có gây buồn ngủ (Non-sedating) |
acrivastine | Benadryl Allergy Relief, Benadryl Plus Capsules |
cetirizine hydrochloride | Benadryl Allergy Oral Syrup, Benadryl for Children Allergy Solution, Benadryl one A Day Relief, Piriteze Allergy, Pollenshield Hayfever Relief, Zirtek Allergy Relief |
desloratadine | Neoclarityn |
fexofenadine hydrochloride | Telfast |
levocetirizine hydrochloride | Xyzal |
loratadine | Clarityn Allergy |
mizolastine | Mizollen |
Nhóm thuốc kháng histamine có gây buồn ngủ |
alimemazine | Vallergan |
chlorphenamine maleate | Allercalm Allergy Relief Tablets, Piriton |
clemastine | Tavegil |
cyproheptadine hydrochloride | Periactin |
hydroxyzine hydrochloride | Atarax, Ucerax |
ketotifen | Zaditen |
promethazine hydrochloride | Phenergan |
Thuốc dùng cho mắt và mũi |
antazoline sulphate | Otrivine-Antistin (for eyes) |
azelastine hydrochloride | Optilast (for eyes), Rhinoblast (for nose) |
emedastine | Emadine (for eyes) |
epinastine hydrochloride | Relestat (for eyes) |
Kem và thuốc dùng cho da |
diphenhydramine hydrochloride | Benadryl Skin Allergy Relief Cream |
mepyramine maleate | Anthisan, Wasp-Eze Bites and Stings spray, Wasp-Eze |
Say tàu xe khi đi du lịch, chóng mặt/ buồn nôn và hỗ trợ giấc ngủ |
meclozine hydrochloride | Sea-legs |
cyclizine | Valoid |
cinnarizine | Stugeron, Arlevert |
diphenhydramine hydrochloride | Nytol, Nytol one-a-Night |
promethazine hydrochloride | Sominex |
promethazine teoclate | Avomine |
Thực tế lâm sàng, chúng tôi đã từng gặp hàng trăm đơn thuốc lặp đi lặp lại điệp khúc 20 viên (có toa lên đến 30-40 viên) loratidine hoặc 20 (hoặc 30) viên cetirizine, cuối cùng đến với chúng tôi đã lên đến con số vài trăm viên trong một thời gian chưa đầy 6 tháng. Hỏi kỹ về bệnh sử và lịch sử bệnh mới biết các bác sĩ này chỉ dựa trên kết quả xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán miễn dịch (ELISA hoặc IHA) dương tinh thì tiếp tục cho thuốc, nếu quả thật như thế thì không còn gì bàn nữa (?!). Chúng ta biết rằng sự tồn tại kháng nguyên sau điều trị của phần lớn bệnh ký sinh trùng là từ 6-9 tháng sau mới trở về âm tính hoặc thậm chí có trừờng hợp dương tính kéo dài đến 2 năm hoặc hơn (hiếm) và vì tồn tại kháng nguyên như thế nên phản ứng KN-KT sẽ còn dương tính, trong khi các triệu chứng lâm sàng và các thông số cận lâm sàng khác đều trở về bình thường. Một lý do khác rằng nước ta là một quốc gia xếp vào khu vực có “khí hậu và điều kiện nhiệt đới” nên việc nhiễm các loại giun sán thông thường trong cơ thể người cũng không phải là ngoại lệ, trong khi các bộ kít chẩn đoán ELISA hiện nay chủ yếu ly trích kháng nguyên là loại kháng nguyên thân (chứ không phải kháng nguyên tiết_Excretory/secretory antigen) nên phản ứng dương tính chéo / dương tính giả là chiếm tỷ lệ không nhỏ. Đó là giải thích tại sao trong thời gian qua, rất nhiều người đi kiểm tra xét nghiệm các loại giun sán bằng ELISA lại dương tính với giun đũa chó-mèo, giun lươn, sán lá gan lớn, amíp, ấu trùng sán lợn nhiều đến vậy, có thể nói rằng dương tính lên đến trên 70%.
Qua đây, chúng ta đặt ra câu hỏi rằng liệu tất cả những người dương tính đó có thật sự nhiễm bệnh hay không? Chỉ định dùng thuốc giun sán cần thiết và quan trọng không-đây chính là khâu của bác sĩ điều trị phải nhận định kết quả xét nghiệm và đối chiếu bệnh cảnh lâm sàng và đưa ra chỉ định thuốc giun sán và thuốc kháng histamine sao cho hợp lý, chứ không nên biến cuộc chữa bệnh là một phương trình: Ngứa, dị ứng, mày đay + dương tính ELISA = chỉ định điều trị thuốc giun, sán + anti-histamine!
Một ví dụ thứ 2 khá điển hình là theo kết quả nghiên cứu của Bệnh viện Nhi đồng 1, thành phố Hồ Chí Minh cho biết nghiên cứu thực hiện tại BV Nhi đồng 1 cho thấy ngộ độc thuốc kháng histamin nhằm trị sổ mũi rất thường gặp, đứng thứ hai trong ngộ độc thuốc ở trẻ em. Sau khi uống nhầm thuốc từ 30 phút đến 6 giờ, trẻ sẽ có các dấu hiệu thần kinh toàn thân như ưỡn người, gồng người, co giật, hoặc biểu hiện ở mặt cổ như lè lưỡi, vẹo cổ, mắt trợn nhìn lên, cơn xoay mắt bất thường. Nghiên cứu cũng cho biết thuốc kháng histamin có nhiều tên khác nhau chlorpheniramin, Pheramin, Polaramin, promethazin, Phenergan, Tinset, loratadin…Ngộ độc cũng có thể là do uống đồng thời nhiều chế phẩm khác nhau có chứa kháng histamin. Ngộ độc xảy ra tập trung ở độ tuổi dưới 1 tuổi (57%) và dưới 6 tháng (47%). Trẻ gái bị ngộ độc nhiều hơn trẻ trai.
Nghiên cứu cũng cho thấy nguyên nhân ngộ độc chủ yếu do người nhà tự ý mua và cho trẻ uống thuốc không đúng nhằm chữa triệu chứng sổ mũi do nhiễm khuẩn hô hấp, cảm lạnh, hoặc đơn thuần do trẻ quấy nhiều, khó ngủ. Nguyên nhân ít gặp hơn là do cha mẹ cho con uống thuốc dạng của người lớn hoặc tự ý tăng liều thuốc, tăng số lần uống nhằm mong muốn có tác dụng nhanh hơn. Liều đã dùng cho trẻ trong những trường hợp này cao gấp nhiều lần so với liều điều trị. Ngoài ra, các thuốc kháng histamin hoặc trong thành phần có chất kháng histamin để điều trị cảm và ho thường được cất giữ trong nhà, để trên bàn, kệ tủ, trong ngăn kéo... là những nơi mà trong lúc chơi nghịch trẻ dễ dàng lấy uống vì tưởng là kẹo. Để sử dụng nhóm thuốc kháng histamine an toàn và hợp lý, tránh các trường hợp ngộ độc hoặc phải gánh chịu các tác dụng ngoại ý do “thuốc và điều trị” gây ra, thuốc kháng histamine cũng có những chỉ định cụ thể và một số hạn chế riêng của nó khi đưa ra chỉ định. Điều quan trọng là chúng ta có nắm bắt được cơ chế và tác động của thuốc và quan trọng hơn, có lẽ nên dành nhiều thời gian hỏi tiền sử, bệnh sử, thuốc đã dùng và tác nhân dị nguyên nghi ngờ để loại bỏ chúng đã là trên 95% thành trong điều trị ca bệnh có biểu hiện mày đay và ngứa.
Hạn chế của thuốc kháng histamine
Phạm vi điều trị của các thuốc kháng histamine có 2 hạn chế sau đây:
-Do tác dụng chỉ là đối kháng tương tranh thuận nghịch với histamine tại thụ thể nên trong trường hợp rối loạn có sự phóng thích ồ ạt, quá nhiều hítamine như bị sốc phản vệ, một mình thuốc kháng histamine không thể giải quyết được mà phải kết hợp thêm các thuốc khác;
-Trong dị ứng không chỉ có thuốc kháng histamine mà còn có một số chất sinh học trung khác tham gia vào quá trình gây phản ứng (như các chất prostaglandine, leucotrien, kinine,...). Do đó, bản thân thuốc kháng histamine một mình không có hiệu quả hoặc chỉ giảm nhẹ triệu chứng mà thôi.
Một số chỉ định của thuốc kháng histamine
-Điều trị hoặc dự phòng một số biểu hiện của dị ứng cấp tính trong sổ mũi theo màu, côn trùng chích, cắn, đốt, viêm mũi dị ứng, viêm da dị ứng, nổi mày đay, viêm kết mạc dị ứng, sẩn ngứa, phù Quicke;
-Hỗ trợ trong điều trị sốc phản vệ (phải kết hơp với nhiều thuốc và biện pháp khác như adrenaline + corticoides + kháng histamine + oxy liệu pháp), kể cả điều trị viêm mũi dị ứng (phối hợp với glucocorticoides bơm xịt vào mũi);
-Ngoài điều trị dị ứng, một số thuốc kháng histamine còn được dùng để chống say tàu xe (dimenhydrate, diphenhydramine, cinnarizine), trị đau nửa đầu (cinnaine, flunarizine, dimethothiazine), điều trị hội chứng Menier (hydroxyzine), kích thích sự thèm ăn (cyproheptadine), dùng như thuốc an thần gây ngủ (promethazine, doxylamine), điều trị tác dụng phụ thần kinh ngoại tháp của thuốc chống loạn thần (diphenhydramine).
Một số tác dụng phụ của thuốc kháng histamin khi dùng
Danh mục các tác dụng phụ dưới đây không bao gồm các tác dụng phụ của mỗi thuốc có thể. Các kháng histamine gây buồn ngủ có thể uống vào cảm giác buồn ngủ, mặc dù điều này có thể cải thiện sau khi chúng ta uống thuốc một vài ngày. Các kháng histamine không gây buồn ngủ hiếm khi gay cảm giác buồn ngủ. Tình trạng ngủ lơ mơ gây ra bởi thuốc antihistamine có thể làm không an toàn khi lái xe hoặc vận hành máy.
Một số tác dụng phụ ít gặp hơn, chủ yếu là nhóm thuốc gây buồn ngủ, gồm có:
·Nhức đầu
·Khó đào thải nước tiểu
·Khô miệng
·Nhìn mờ
·Cảm giác đau hoặc buồn nôn
·Táo bón hoặc tiêu chảy
·Kích ứng da hoặc mắt (do kem, dịch, thuốc nhỏ mắt)
Các tác dụng phụ sau đây cũng óc liên quan đến đã được báo cáo:
·Đánh trống ngực và rối loạn nhịp tim
·Tăng huyết áp
·Phản ứng dị ứng (sưng phồng, ban đỏ, khó thở)
·Chóng mặt
·Lú lẫn
·Tầm cảm
·Rối loạn giấc ngủ
·Rùng mình, cơn động nhẹ
·Cơn ngất hoặc choáng
·Rối loạn chức năng gan và máu
·Tăng phấn khích quá mức ở trẻ em
Trẻ em và người lớn trên 65 tuổi thường xuất hiện các dấu hiệu tác dụng phụ.
Một số lưu ý khi sử dụng các thuốc kháng histamine
-Khi dùng thuốc kháng histamine vẫn có tình trạng không dung nạp thuốc sẽ dẫn đến trẻ em bị kích thích vật vả, người lớn dễ bị dị ứng bởi chính thuốc kháng histamine;
-Thuốc kháng histamine chỉ điều trị triệu chứng dị ứng (ho, sổ mũi nước, nổi mày đay, ngứa), điều quan trọng là chúng ta cần tìm ra và loại trừ các kháng nguyên liên quan (thức ăn, thuốc, hóa chất đang dùng hoặc để xung quanh, các yếu tố liên quan đến môi trường sống) thì may ra có thể trị bệnh đựợc;
-Nhiệu biệt dược thuốc cảm, sổ mũi (như Contact, Decolgen Fort, Cetamol F,Actifed, Comtrex, Denoral) hoặc điều trị triệu chứng ho (Toplexil, Atussin, Rhinathiol-Promethazine), trong thành phần có chứa thuốc kháng histamine cổ điển, dễ gây buồn ngủ (clorpheniramine). Do đó, cần lưu ý người sử dụng về tác dụng gây buồn ngủ, tránh dùng thuốc nếu phải làm việc đòi hỏi sự tập trung, tỉnh táo và tránh uống rượu khi đang dùng thuốc. Hơn nữa, trong thuốc loại này còn chứa thêm thuốc làm co mạch, chống sung huyết ở niêm mạc mũi (như phenylpropanolamine, ephedrine, pseudoephedrine) cần tránh dùng cho người cao huyết áp, trẻ em còn quá nhỏ tuổi;
-Tác dụng phụ gây buồn ngủ của các thuốc kháng histamine cổ điẻn có khi được dùng như chỉ định chính để điều trị mất ngủ. Nên lưu ý chỉ dùng thuốc trong trường hợp này thời gian ngắn và lưu ý các bà mẹ không được dùng thuốc cho trẻ ngủ kéo dài (sẽ gây cho trẻ mệt mỏi, không phát triển trí tuệ tốt); Ngoài ra, thuốc còn có tác dụng chống tiết nên dễ gây khô miệng, táo bón, khô mắt;
-Ở Việt Nam chúng ta vẫn còn một số người sử dụng thuốc cyprohepadine (Periactine, Peritol) điều trị chứng chán ăn (cần lưu ý rằng một số quốc gia không còn dùng chỉ đinh này). Các đối tượng không được dùng cyprohepadine là phụ nữ có thai (thuốc ảnh hưởng lên thai), phụ nữ cho con bú (thuốc ức chế tiết sữa), trẻ em dưới 2 tuổi, người cao tuỏi;
-Một báo cáo khoa học đăng tải trên tạp chí The Journal of the American Medical Association tường trình một ca tử vong của một phụ nữ khi dùng cùng lúc Terfenadine với Ketoconazole. Sau đó nhiều báo cáo khác cho thấy khi dùng Terfenadine chung với các kháng sinh họ macrolide như Erythromycine, Josamycine, Clarithromycine hoặc uống chung với họ thuốc kháng nấm Ketoconazole, Itraconazole sẽ bị rối loạn nhịp tim trầm trọng (xoắn đỉnh), ngay người bị suy gan khi dùng Terfenadine cũng gây rói loạn nhịp. Do vậy, hiện nay cơ quan Quản lý dược và thực phẩm của Mỹ (US.FDA) cấm dùng Terfenadine và thay thế bằng Fexofenadine (biệt dượcTelfast). Fexofenadine là chất chuyển hóa của Terfenadine khi dùng không bị gan chuyển hóa nên tránh được tương tác thuốc ở giai đoạn chuyển hóa với các thuốc khác không đưa đến rối laọn nhịp tim như trên. Việt Nam khong cấm dùng nhưng phải có toa bác sĩ; nên lưu ý astemizole có thể gây tương tác thuốc giống như terfenadine. Hiện tại, terfenadine và Astemizole bị cấm lưu hành ở Mỹ và một số nước khác;
-Tình hiệu quả của điều trị dị ứng thuốc tùy thuộc vào thể trạng mỗi người, cho nên không nhất thiết thuốc thế hệ mới sẽ tốt hơn thuốc thế hệ cũ. Do vậy, có thể dùng thuốc thăm dò, dùng thuốc thế hệ này, nhóm này không cải thiện, phải dùng đến thuốc thế hệ khác, nhóm khác. Cần thông báo tình trạng dùng thuốc thăm dò như thế cho người dùng biết để tránh hiểu lầm “chỉ định thuốc kém”;
-Không tự ý dùng cho trẻ em dưới 1 tuổi, dùng thuốc kháng histamin để chữa sổ mũi do cảm sẽ làm niêm mạc mũi dày hơn, bệnh khó chữa hơn, uống nhiều nước sau khi uống thuốc kháng histamin, thuốc kháng histamin còn có tác dụng ức chế và kích thích trên hệ thần kinh trung ương; trẻ em mà hàng rào mạch máu - não chưa hoàn chỉnh dễ bị ngộ độc, ngay khi sử dụng thuốc đúng liều.
-Để giảm chi phí dùng thuốc có thể phối hợp thuốc thế hệ 1 vào ban đêm và thuốc thế hệ 2, 3 vào ban ngày để tránh các tác dụng phụ ban ngày như ngủ lơ mơ, uể oải, mệt mỏi.
Một số triệu chứng ngộ độc thuốc kháng histamine
Do các thuốc kháng histamin gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh trẻ em nên khi bị ngộ độc, các dấu hiệu tương tự như bệnh não xuất hiện sau khi uống từ 30 phút đến 6 giờ. Đó là các dấu hiệu thần kinh toàn thân như ưỡn người, gồng người, co giật, hoặc biểu hiện ở mặt cổ như lè lưỡi, vẹo cổ, mắt trợn nhìn lên, cơn xoay mắt bất thường - dễ lầm lẫn các bệnh viêm não - màng não, xuất huyết não. Các dấu hiệu khác là đồng tử giãn, run, kích thích, sốt cao. Trẻ bị ngộ độc cần phải được theo dõi sát tại bệnh viện để tránh những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng. Bệnh thường hồi phục dần dần nếu được theo dõi và xử trí đúng cách.
Theo Hệ thống dữ liệu độc chất quốc gia thuộc Hội chống chống độc Quốc gia Mỹ (The American Association of Poison Control Center) báo cáo hàng năm cho biết năm 2007 có 78.130 trường hợp phơi nhiễm với chất ức chế thụ thể H1 hoặc H2, trong đó có H1 là 69.243 trường hợp. Tổng số 13.298 bệnh nhân phoiư nhiễm với hoặc H1 hoặc H2 blocker đươc điều trị tại các trung tâm y tế. Diphenhydramine là thuốc được phát hiện nhiều nhất với 33.143 báo cáo liên quan đến độc.
·Tổng số dữ liệu báo cáo đến Trung tâm chống độc Mỹ năm 2007 là 2817 (3.6%) bị nhiễm độc từ trung bình đến nghiêm trọng và 69 (0.09%) dẫn đến tử vong. Phần lớn tử vong liên quan đến diphenhydramine;
·Các chất kháng histamine thế hệ 1 của thụ thể H1, như diphenhydramine có thể đặc biệt nguy hiểm vì chúng có thể đưa đén tình trạng lo âu, căng thẳng, con co giật, động kinh, đôi khi có tình trạng hoại tử cơ vân và toan chuyển hóa. Một kênh natri giống quinidine bị blốc, và liều cao thì mọt kênh kali cũng bị hiệu ứng block, dẫn đến dẫn truyền bị trì hoãn (kéo dài khoảng QRS) và tái khử cực (QT kéo dài) và góp phần vào rối lọan nhịp thất;
·Các chất đối kháng với thụ thể H1 thế hệ 2 như terfenadine và astemizole dẫn đến kéo dài khaỏng QT và đe dọa tính mạng với các hình ảnh nhịp nhanh thất đa hình (polymorphic ventricular tachycardia) hay xoắn đỉnh (torsade de pointes), đặc biệt khi phối hợp với thuốc Erythromycine;
·Từ năm 1990-2005, Viện Civil Aerospace Medical Institute (CAMI) báo cáo các thuốc kháng histamine được tìm thấy trong 338/5383 tử vong. Trong đó thuốc kháng histamine chiếm 13 trường hợp. Tỷ lệ sử dụng thuốc kháng histamine trong số các ca tử vong tăng từ 4% lên 11%, chỉ ra vấn đề rất nghiêm trọng; Một số báo cáo cho biết có dấu hiệu phù phổi chậm do quá liều thuốc kháng histamine;
·Famotidine cũng gây tăng lượng phosphate trong huyết thanh trong số các bênh nhân chạy thận nhân tạo có dùng calcium carbonate (thậm chí liều khuyến cáo 10 mg/ngày);
·Trong những bệnh nhân nặng, chỉ định Cimetidine đường tĩnh mạch dẫn đến nhịp tim chậm và giảm huyết áp, có thể dẫn đến ngừng tim.
Về chủng tộc
·Sự acetyl hóa của diphenhydramine với một chất chuyển hóa không độc xảy ra nhanh 1/2 lần trên những người châu Á so với người da trắng. Do vậy, những người châu Á có ngưỡng nhạy thấp hơn về hiệu ứng tâm thần vận động và an thần gây ngủ. Các thuốc kháng histamine có khả năng tác động lên microsomal enzyme của gan và tăng tỷ lệ đào thải trên những bệnh nhân dùng thuốc mạn tính. Hiện tượng này có liên quan đến cơ chế chuyển hóa tự động;
·Các chất kháng thụ thể H2 sử dụng như là một yếu tố nguy cơ tiềm tàng đối với sự phát triển nhận thức trên các người Mỹ gốc Phi;
·Sự kích thích ngược trong hệ thống chuyển hóa CYP2D6 siêu nhanh cũng đã được báo cáo trên những người dùng diphenhydramine.
Về lứa tuổi
·Theo dữ liệu của Trung tâm chống độc 2007, số lượng người phơi nhiễm độc với các chất histamine lớn nhất liên quan đến các bệnh nhân < 6 tuổi (35.550 hoặc 44%), mặc dù mối liên quan giữa liều dùng vào và độ trầm trọng của các triệu chứng trong một nghiên cứu tổng hợp hồi cứu chưa thấy có ý nghĩa;
·Dữ liệu năm 2007 cũng chỉ ra các thuốc kháng histamine liên quan đến nhiễm độc xếp vào hàng cao nhất thứ 10 trong số trẻ em < 5 tuổi;
·Một mối liên quan chặt chẽ giữa các triệu chứng trầm cảm trên những người già (> 65 tuổi) và các chất blốc H2 đã được ghi nhận;
·Việc sử dụng các thuốc kháng histamine không hợp lý với các triệu chứng trên URI và tai giữa có thể không nhất thiết phơi nhiễm với thuốc đó như một hiệu ứng tác dụng phụ của nhóm thuốc này trên trẻ em. Ngoài ra, không có nghiên cứu nào chỉ ra một mối liên quan lợi điểm trong quản lý các tình trạng này với các thuốc kháng histamine và thuốc chống sung huyết.
Về mặt thực thể
Nhìn chung sự phối hợp cổ điển của hiệu ứng các thuốc anticholinergic trên thần kinh trung ương và ngoại vi của các chất độc antihistamine. Khi dùng phối hợp trên những người già hoặc quá nhỏ thì biểu hiện có thể khác nhau vè hình ảnh lâm sàng, đôi khi không rõ ràng.
Một số đặc điểm khác của độc tính như động kinh, loạn nhịp tim, giảm huyết áp không thường xuyên xảy ra và có thể giải thích bởi cơ chế khác với hiệu ứng anticholinergic.
·Hội chứng anticholinergic
oĐặc điểm ngoại biên bao gồm khô niêm mạc, nòng người, đỏ da, phừng mặt, do ức chế tiết tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi;
oDãn mạch xảy ra ở những mach mạch máu ngoại vi, đặc biệt trên da và mặt. Các bệnh nhân dường như đỏ và ấm, khong tiết mồ hôi. Thân nhiệt tăng do không cók hả năng bài tiết và điều hòa nhiệt ở thần kinh trung ương bị thay đổi;
oĐồng tử dãn đáng kể và thị lực mờ, thiếu kích thích cholinergique, có thể gây tắc ruột. các triệu chứng thứ phát kéo dài làm trì hoãn hấp thu thuốc có thể xảy ra. Nhịp xoang nhanh là một trong những dấu hiệu sớm nhất của blốc thụ thể muscarinic. Sự nhịn tiểu lại có thể góp phần vào tình trạng lo âu của bệnh nhân và phải đặt sond Foley giải quyết đường tiểu;
oHội chứng anticholinergic trung ương thường xảy ra đồng thời với các dấu hiệu nhiễm đôc ngoại vi, Mặc dù đôi khi nó được báo cáo không có bằng chứng ngại vi. Các triệu chứng bao gồm rối loạn định hướng, lo âu, suy giảm trí nhớ, không có cảm giác hoặc mất giọng nói, ngữ nghĩa, ảo giác. Hội chứng anticholinergic trung ương có thể biểu hiện chỉ là loạn thần hoặc thường đi kèm với chứng hoang tưởng, đa nghi, áo giác, ảo thanh và các chức năng cảm giác trong cơ thể còn nguyên vẹn.
oTrạng thái lo lắng có thể làm thêm phức tạp về tình trạng lọan thần và có thể là một phản xạ dưới tác dụng đau, thiếu thuốc hoặc quá liều. Cơn mê sảng anticholinergic đã có chẩn đoán nhầm với viêm não màng não, nhiễm trùng và mất trí nhớ.
·Cơn động kinh không phải là đặc điểm hay gặp của nhiễm độc thuốc kháng histamine và nói chung nếu có rất ngắn.
oSong liều cao diphenhydramine, pyrilamine, hydroxyzine dẫn đến nhiều cơn động kinh lặp lại, kéo dài;
oCác nhà nghiên cứu cho rằng vai trò của thuốc chống co giật của histamine một cách tự nhiên vì thụ thể H1 kết hợp với các thuốc chống động kinh trong não và ức chế hoạt động của động kinh;
oThuốc kháng histamine cũng được biết là tăng sóng bất thường trên điện não đồ và nghi ngờ động kinh trên những bênh nhân bị chứng động kinh;
·Tác động lên hệ thần kinh trung ương
oTrong một tổng kết trên 136 bệnh nhân dùng quá liều diphenhydramine, xuất hiện các triệu chứng buồn ngủ, hôn mê là các triệu chứng hay gặp, xảy ra khoảng 55% số báo cáo có quá liều;
oTrạng thái thẩn thờ được xem như là triệu chứng đặc hiệu cao, xảy ra trong 15% số bênh nhân;
oRối loạn vận động ngoại tháp cấp tính (acute extrapyramidal movement disorders), phản ứng lo âu nghiêm trọng và loạn thần do nhiễm độc nặng cũng đã được báo cáo;
oTrong một bào cáo về dùng thuốc lâu dài diphenhydramine dẫn đến các triêu chứng giống như thiếu thuốc (cai nghiện). Một bệnh nhân 34 tuổi tâm thần phân liệt đã dùng thuốc khaỏng 800 mg diphenhydramine 2 lần mỗi ngày trong 1 tháng để an thần gây ngủ và trạng thái phấn khích. Diphenhydramine giảm đến 600 mg mỗi ngày chia làm nhiều liều trong 3 ngày đầu nhập viện rồi sau đó giảm dần. các bênh nhân tái xuất hiện cơ mất ngủ trong suốt quá trình không dùng thuốc, tăng lên vào ban ngày, kích thích, hội chứng ngoại tháp và không có lọan thần.
·Độc tính trên hệ tim mạch
oTăng nhịp xoang, xoắn đỉnh, nhịp nhanh thất, sốc tim, tăng huyết áp cũng đã được ghi nhận trên các trường hợp quá liều thuốc kháng histamine. Tăng nhịp xoang là dấu hiệu độc trên tim mạch hay gặp nhất;
oThuốc kháng histamine với kháng cholinergique có nguy cơ chẹn kênh natri như các thuốc diphenhydramine, chlorpheniramine, pyrilamine, phenothiazine;
oCác thuốc này dẫn truyền chậm thông quan kênh natri và dẫn đến làm chậm dẫn truyền cũng như co dãn cơ tim. Hiếm khi, suy bơm cơ tim xảy ra khi dùng liều cao;
oNhịp nhanh thất ít gặp nhưng có thể xảy ra cao gấp 4 lần trên những người dùng thuốc kháng histamine không gây buồn ngủ (non-sedating antihistamine). Các thuốc kháng histamine phenothiazine, diphenhydramine, piperidine liên quan đến thời gian QT kéo dài. Xoắn đỉnh có thể xảy ra chỉ khi sau khi dùng kháng histamine loại piperidine, đặc biệt các thuốc Astemizole và Terfenadine. Các rối lọan dẫn truyềntim khác gồm có sự phân ly nhĩ thất (atrioventricular dissociation) và block nhánh đã được báo cáo trên một bé gái 3 tuổi dùng 100mg astemizole;
·Ảnh hưởng lên chức năng phổi:
Sung huyết phổi là dấu hiệu hay gặp nhất trên các trường hợp giải phẩu tử thi trong tổng số 76 trường hợp tử vong do diphenhydramine từ năm 1946 đến năm 2003. có lẽ các cái chết có nguồn gốc tim mạch do suy mạch vành cơ tim và suy thất, mặc dù nhiễm độc cơ tim xảy ra một các tình cờ chưa được báo cáo.
·Da: hiếm khi thấy tình trạng phát ban do sử dụng cetirizine.
·Cơ xương: phơi nhiễm với các thuốc doxylamine có liên quan đến hiện tượng tiêu cơ vân, đặc biệt khi bệnh nhân đó dùng liều lớn hơn 20 mg/kg.
·Thận: hiện tượng tiêu cơ vân thứ phát do tiếp xúc với doxylamine có thể dẫn đến một tình trạng suy thận cấp.
Một số lưu ý
1.Thuốc chống dị ứng cũng có thể khiến cơ thể bạn bị dị ứng;
2.Thuốc chống dị ứng không phải là một thuốc bổ, nên thận trọng như bất kỳ thuốc nào khác;
3.Dùng bất kỳ thuốc nào cũng có thể gây độc, kể cả thuốc chống dị ứng vì các tác dụng ngoại ý nguy hiểm khác.
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Hữu Đức (2005). Sử dụng thuốc kháng histamine. Dược lâm sàng-12 chuyên đề đào tạo liên tục dược khoa. NXB y học, trang 118-121
3.S. Thomas (2007). Antihistamine poisoning. Medicine, Volume 35, Issue 11, Pages 592-593 http://linkinghub.elsevier.com
4.Toxicity, Antihistamine. eMedicine Emergency Medicine (2006). http://www.tripdatabase.com
5.Amelia Reyes-Jacang (2007). Antihistamine Toxicity in Children. http://cpj.sagepub.com
7.Các hình ảnh tham khảo và trích dẫn trên internet