Giới thiệu về tương tác thuốc
Tương tác thuốc (drug interaction) là hiện tượng xảy ra khi sử dụng đồng thời hai hay nhiều loại thuốc, thuốc này sẽ làm thay đổi tác dụng hay độc tính của thuốc kia, đưa đến hậu quả / hoặc kết quả có lợi hoặc bất lợi đối với cơ thể người dùng thuốc.Trong thực tiễn lâm sàng điều trị, sự phối hợp thuốc là không thể tránh khỏi và có thể dẫn đến sư tương tác thuốc, biểu hiện bằng sự thay đổi tính chất dươc động học hoặc tác dụng dược lý của một thuốc. Do vậy, người ta phân biệt hai loại tương tác thuốc dược động jọc và dược học theo sơ đồ sau đây:
Ý nghĩa lâm sàng: các nhà điều trị chủ động phối hợp thuốc nhằm khai thác tương tác thuốc theo hướng có lợi, để tăng hiệu quả điều trị, giảm tác dụng phụ và giảm độc tính của thuốc.
Mục đích của thầy thuốc khi chỉ định phối hợp nhiều loại thuốc (đa hóa trị liệu) là nhằm khai thác tương tác thuốc có lợi, tức là làm tăng hiệu quả điều trị và giảm tác dụng phụ của thuốc. Nhưng nhiều khi do lực bất tòng tâm hoặc vì có ý đồ không tốt (phối hợp thuốc theo kiểu bao vây để tạo uy tín bác sĩ, làm bệnh nhân tốn tiền mua nhiều thuốc không cần thiết) mà bác sĩ phối hợp thuốc tạo cảnh “hổ và cừu được nhốt chung một chuồng”. Khi được nhốt chung như thế chắc chắn hổ sẽ ăn thịt cừu (thuốc này làm mất tác dụng của thuốc kia) và sau khi ăn thịt cừu, hổ sẽ hăng máu, hung dữ hơn bình thường (thuốc kia làm thuốc này tăng độc tính). Đó có thể xem là bức tranh biếm họa có tính ví von nhằm diễn tả cái gọi là tương tác thuốc có hại;
Các loại tương tác thuốc
Tương tác thuốc dược động học
·Giai đoạn hấp thu:
Khi hai thuốc dùng chung bằng đường uống, thuốc này sẽ cản trở hấp thu của thuốc kia. Nơi thuốc được hấp thu một cách đáng kể là ruột, bởi vì nơi đây diện tích hấp thu rất rộng, cơ chế hấp thu tốt, lượng máu tưới rất nhiều để thuốc có thể hấp thu vào hệ tuần hoàn chung. Tương tác thuốc ở giai đoạn hấp thu có thể làm chậm sự hấp thu thuốc nhưng quan trọng hơn hết là lượng thuốc hấp thu bị giảm đáng kể đưa đến nồng độ thuốc trong máu đạt được quá kém không cho tác dụng điều trị hiệu quả.
§Tương tác cản trở hấp thu:
Đó là trường hợp thuốc kháng acid chứa thành phần Al, Mg hoặc thuốc chứa than hoạt, kaolin điều trị tiêu chảy cản trở hấp thu thuốc uống cùng lúc với nó (do đó nên uống 2 thuốc cách nhau 2 giờ); hoặc Tetracycline nếu uống chung với thuốc kháng acide chưa canxi sẽ mất tác dụng do tạo phức với canxi, không hấp thu được; Cholestyramine làm giảm sự hấp thu của Levothyroxine sau khi hấp thu vào máu, qua gan lại theo mật đổ ra ruột (chu kỳ gan-ruột) để bị tương tác thuốc, cho nên 2 thuốc này cho uống cách nhau 4 giờ;
§Tương tác làm thay đổi nhu động ruột:
Thuốc tẩy, nhuận tràng làm các thuốc khác vận chuyển nhanh không quá hấp thu vào máu được; ngược lại, thuốc chống co thắt, dẫn chất thuốc phiện làm cho thuốc khác vận chuyển chậm, hấp thu nhiều hơn so với bình thường, có thể gây độc tính;
Tương tác làm thay đổi hệ tạp khuẩn ruột: Erythromycine làm tăng độc tính của digoxine vì bình thừong Digoxine bị chuyển hóa bởi hệ vi khuẩn đường ruột với 40% không còn hoạt tính, vi khuẩn đường ruột bị Erythromycine tiêu diệt sẽ làm cho Digoxine hoạt tính hấp thu vào máu nhiều hơn. Hoặc đã có nhiều nghiên cứughi nhận uống cùng lúc ampicilline, tetracycline với thuốc ngừa thai có thể đưa đến “vỡ kế hoạch” do kháng sinh làm rối lọan hệ tạp khuẩn ruột không tạo môi trường chuyển hóa thuốc ngừa thai như bình thường và làm giảm hoặc mất tác dụng ngừa thai.
·Giai đoạn phân bố
Khi được hấp thu vào máu để được phân bố, một phần thuốc sẽ kết dính với protein không cho tác dụng, phần còn lại ở dạng tự do mới cho tác dụng theo phản ứng cân bằng: Thuốc-protein huyết tương (dữ trữ) ó thuốc tự do (cho tác dụng). khi hai thuốc cùng liên kết với protein huyết tương, thuốc có ái lực liên kết lớn hơn sẽ đẩy thuốc kia ra thành dạn tự do làm tăng nồng độ gây độc tính. Proteine huyết tương chủ yếu gắn thuốc là albumine, các protein huyết tương khác gắn ít hơn, đây được xem là kho dự trữ thuốc sẽ phóng thihcs thuốc tự do khi càn thiết.
·Giai đoạn chuyển hóa:
Phần lớn thuốc được thải trừ chính trong cơ thể bằng sự chuyển hóa thuốc chủ yếu xảy ra ở gan với hệ thống enzyme chuyển hóa thuốc có tên cytochrome P450. Tương tác thuốc ở giai đoạn chuyển hóa thường thông qua tương tác trên chính hệ thống cytochrome P450, nên nhà điều trị cũng như dược sĩ cần có một số hiểu biết về hệ thống này. Hệ cytochrome P450 (CYP 450) là các enzyme có nhiều ở tế bào gan, tế bào ruột non, có ít hơn ở thạn, phổi, não,…Các enzyme của cytochrome P450 có khoảng 30 và được gọi là đồng enzymevì gồm các chuỗi acid amine gần giống nhau.
Các isoenzyme này được đặt tên gồm 3 chữ đầu là CYP, sau đó là con số chỉ họ, chữ cái chỉ phân họ và cuối cùng là số thứ tự trong phân họ này. Hoạt tính của enzyme chuyển hóa thuốc CYP450 có thể tăng hoặc giảm dưới tác động của thuốc.
Kê đơn và vấn đề tương tác thuốc
Kê đơn thuốc là một trong những quy định mà Bộ Y tế yêu cầu nghiêm ngặt nhất đối với thầy thuốc (phải viết rõ ràng tên thuốc, liều lượng, cách dùng, không viết tắt, chú ý tương tác có hại khi phối hợp nhiều thuốc...). Thế nhưng trên thực tế, lỗi thường gặp nhất ở thầy thuốc lại vẫn liên quan đến... tương tác trong kê đơn thuốc.
Tương tác thuốc và những bất lợi
Tương tác thuốc là sự tác động qua lại giữa các loại thuốc với nhauà gây hiệu ứng có thể có lợi, có thể bất lợi. Những hậu quả do nó gây ra trầm trọng hay không trầm trọng hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ tương tác giữa các nhóm thuốc với nhau. Sự tương tác thuốc xảy ra khi sử dụng 2 hay nhiều thứ thuốc đồng thời mà có tính tương tác, đối kháng nhau àhai tình huống hoặc làm gia tăng nồng độ thuốc trong máu hoặc làm giảm nồng độ thuốc trong máuà ảnh hưởng đến chất lượng hiệu quả điều trị. Nếu tương tác thuốc mạnh hơn à ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng. Do vậy, trong sử dụng thuốc để điều trị bệnh, ngoài việc chẩn đoán đúng bệnh, sử dụng đúng thuốc còn phải tính đến tính an toàn và hợp lý, nghĩa là phải xem xét đến sự tương tác thuốc. Tuy nhiên hiện nay, tại rất nhiều cơ sở điều trị, việc các bác sĩ kê đơn thuốc “tràn lan” trong một đơn thuốc dẫn đến những bất lợi cho người bệnh đã trở nên phổ biến. Với tình trạng dùng thuốc như thế, tỷ lệ xuất hiện các phản ứng có hại của thuốc đã nằm trong giới hạn báo động của Tổ chức Y tế Thế giới.
Trong một nghiên cứu của tiến sĩ Trần Nhân Thắng, BV Bạch Mai và cộng sự về tương tác thuốc đã chỉ ra khi sử dụng 5 loại thuốc trong 1 toa thuốc thì số thuốc có tương tác bất lợi chiếm khoảng 30% và mỗi đơn có một cặp tương tác. Nhưng chỉ tăng thêm một loại thuốc (6 loại thuốc/đơn) thì đã có 2/3 trong số đơn thuốc này có tương tác có hại và số cặp tương tác đã lên đến 8 cặp. Nghiên cứu trên bệnh án sử dụng 9 loại thuốc/đơn thuốc thì đã gặp tới 7 cặp tương tác. Còn với bệnh án sử dụng 11 loại thuốc / đơn thuốc thì số cặp tương tác lên đến 10. Vấn đề phối hợp thuốc trong một đơn thuốc điều trị là không thể tránh khỏi và rất dễ dẫn đến thay đổi tác dụng, tăng độc tính thuốc, thậm chí ngộ độc và tử vong
Các tương tác thuốc xảy ra thường là tương tác bất lợi gặp nhiều trong kê đơn và nó thường xảy ra bất ngờ trong quá trình chuyển hóa thuốc trong cơ thể. Có 5 mức độ tương tác, trong đó, nếu ở mức độ nguy hiểm sẽ đe dọa đến tính mạng bệnh nhân. Các mức độ tiếp theo, tương tác có thể ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe, gây ảnh hưởng đến người bệnh ở các mức độ khác nhau.
Một tác động dễ nhận thấy của tương tác thuốc là trong công tác điều trị, nếu dùng thuốc có sự tương tác lẫn nhau thì sẽ mất tác dụng. Người sử dụng thuốc không tính đến khả năng này thì có thể xảy ra trường hợp uống thuốc mãi nhưng bệnh không hề thuyên giảm, bởi lẽ giữa các thuốc đang sử dụng tương tác lẫn nhau, làm mất tác dụng điều trị của thuốc đang dùng nên khả năng hữu dụng của chúng không còn. Hoặc có thể làm cho bệnh trở nên trầm trọng, hoặc sinh ra một chứng bệnh khác nặng hơn do thuốc. Lý do là các thuốc đã dùng tương tác lẫn nhau, làm gia tăng độc tính của nhau hoặc tăng độc tính của một trong nhiều loại thuốc.
Khâu hướng dẫn cách dùng thuốc: đặc biệt quan trọng trong điều trị
Thông thường, việc sử dụng nhiều thuốc trên một người bệnh trong cùng một thời gian là cần thiết để đạt mục tiêu điều trị mong muốn hoặc để chữa nhiều bệnh cùng một lúc. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, thuốc được phối hợp (quá nhiều không cần thiết). Hiếm có đơn thuốc nào chỉ có 1-2 loại thuốc. Thế nhưng, qua khảo sát, tỷ lệ đơn thuốc có 6 thuốc phối hợp với nhau chiếm khoảng 85%. Nếu là điều trị nội trú tại bệnh viện thì con số này còn cao hơn. Có những trường hợp dùng đơn độc một thuốc hoặc chỉ phối hợp 2 thuốc rất có hiệu quả nhưng các bác sĩ vẫn cho dùng cùng lúc 4-5 loại thuốc (!). Trong điều trị tăng huyết áp, nên sử dụng đúng một thuốc lợi tiểu hoặc thuốc chẹn beta, có thể đạt hiệu quả trên 30 - 50% số người bệnh. Trong điều trị suy tim, dùng đồng thời một thuốc lợi tiểu với một thuốc giãn mạch hoặc một glycosid trợ tim thường cần thiết để đạt được hiệu suất tim thỏa đáng và giữ cho người bệnh không bị phù.
Người thầy thuốc phải có những hiểu biết về cơ chế tương tác thuốc để phân tích các tương tác thuốc một cách hệ thống. Nhiệm vụ của người thầy thuốc là phải hiểu những nguyên lý cơ bản của tương tác thuốc trong việc xây dựng phác đồ điều trị. Các tương tác có thể là tương tác dược động học (thay đổi hấp thu, phân bố hoặc đào thải của thuốc này hay thuốc khác) hoặc tương tác dược lực học (thí dụ tương tác giữa duy trì và đối kháng ở các thụ thể thuốc). Các tương tác có hại quan trọng nhất thường xảy ra ở những thuốc có độc tính cao hoặc có chỉ số điều trị thấp, vì nồng độ thuốc chỉ thay đổi tương đối nhỏ có thể đã dẫn đến những hậu quả có hại rõ rệt. Ngoài ra, các tương tác thuốc có thể ảnh hướng lớn về mặt lâm sàng trên người bệnh nặng hoặc có thể dẫn đến tử vong nếu điều trị không đủ liều.
Một trong những bệnh hay được các bác sĩ kê phối hợp nhiều thuốc nhưng lại không hướng dẫn cách dùng nên tỷ lệ xảy ra tương tác thuốc rất cao là viêm loét dạ dày - tá tràng. Đây là một bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam, gây ra những phí tổn to lớn về điều trị và những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng. Hiện nay, sự đa dạng của thị trường thuốc giúp cho người thầy thuốc có thể lựa chọn thuốc tốt hơn trong điều trị. Tuy nhiên, do đặc thù của thuốc điều trị viêm loét dạ dày - tá tràng là rất dễ gây tương tác với thuốc khác dùng kèm, mặt khác các thuốc này cũng rất dễ bị giảm hiệu quả điều trị nếu dùng không đúng. Do vậy, không có hướng dẫn cách dùng thuốc đầy đủ và chính xác, ngoài việc trực tiếp làm giảm tác dụng của thuốc, còn gây ra những tương tác bất lợi với thuốc khác, ảnh hưởng tới tác dụng của thuốc đó và những thuốc khác dùng kèm. Như vậy, việc hướng dẫn cách dùng thuốc đầy đủ chính xác khi kê đơn là rất quan trọng đặc biệt đối với thuốc điều trị bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng. Thực tế, tỷ lệ tương tác thuốc gặp phải chiếm trên 50% bệnh nhân khi được điều trị đã phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do tương tác thuốc, mặc dù những hậu quả này không hẳn đã biểu hiện hoặc có biểu hiện nhưng bác sĩ không để ý, không theo dõi được, hoặc không biết được nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện đó.
Đa số các tương tác xảy ra đều do hướng dẫn dùng thuốc không đúng. Cũng với những thuốc đó, nếu có hướng dẫn dùngthuốc đúng sẽ không xảy ra tương tác, do đó muốn giảm được các tương tác thuốc thì quan trọng nhất là phải bảo đảm thuốc khi đến tay bệnh nhân có hướng dẫn dùng thuốc đầy đủ chính xác.
Muốn thực hiện tốt điều này thì không chỉ cần có bác sĩ kê đơn có hướng dẫn dùng thuốc đầy đủ, chính xác mà y tá và bệnh nhân phải thực hiện đúng y lệnh. Tương tác giữa cimetidin và metronidazol chiếm tỷ lệ nhiều nhất, chính vì vậy trên thế giới hiện nay có xu hướng ít sử dụng cimetidin có lẽ một phần do hiệu quả kém, phần khác là do dễ gây ra tương tác với thuốc khác. Tương tác các thuốc kháng acid với các thuốc khác cùng kê trong đơn điều trị viêm loét dạ dày - tá tràng có thể tránh được bằng cách dùng thuốc kháng acid cách xa các thuốc khác ít nhất 2 giờ.
Tương tác giữa thuốc và thực phẩm: quan trọng nhưng ít khi để ý đến
Sự tương tác giữa thuốc và thực phẩm là một hiện tượng rất phổ biến. Điều mà người dùng thuốc cần lưu ý không chỉ là uống thuốc lúc đói hay lúc no mà là nên tránh dùng thuốc chung với món ăn, thức uống nào. Vấn đề đặt ra là: những thực phẩm nào thường hay ảnh hưởng nhiều đến tác dụng của thuốc ?
Sữa và calcium
Việc dùng các sản phẩm và các thức ăn giàu calcium có thể gây một sự tương tác hóa học. Ion calcium gắn với thuốc và làm giảm hấp thụ thuốc. Các kháng sinh Fluoroquinolon (như Ciprofloxacin và Levofloxacin) có thể mất hiệu lực khi dùng đồng thời với các thực phẩm này. Có thể làm giảm thiểu sự tương tác này bằng việc uống thuốc ít nhất 2 giờ trước hay 6 giờ sau khi dùng thực phẩm giàu calcium. Các Tetracycline cũng tương tác với calcium dùng chung, nồng độ Cefuroxim bị giảm khi sử dụng chung với các sản phẩm sữa. Các chất bisphosphonat như Alendronat, Risedronat và Ibandronat (trong điều trị loãng xương) đều có sinh khả dụng thấp và ít được hấp thụ khi dùng chung với bất kỳ thực phẩm hay nước giải khát nào ngoài nước thường, đặc biệt là với sữa và các sản phẩm sữa. Nồng độ Methotrexat (điều trị viêm khớp dạng thấp) cũng giảm khi dùng chung với sữa.
Các thực phẩm có chất xơ
Cũng như calcium, chất xơ dễ kết nối với thuốc và làm giảm độ hấp thụ của thuốc. Chẳng hạn, các bệnh nhân tiểu đường muốn giảm nồng độ cholesterol của họ bằng việc ăn bột yến mạch (giàu chất xơ) sau khi uống thuốc Metformin có thể gặp khó khăn trong việc kiểm soát đường huyết. Những thuốc khác tương tác với chất xơ bao gồm Levothyroxin (điều trị bệnh tuyến giáp), digoxin (điều trị bệnh tim) và Penicilline, song các kháng sinh khác trong họ Penicillin (như Ampicillin) xem ra lại không chịu sự chi phối của chất xơ.
Các thực phẩm giàu protein
Các thực phẩm giàu protein có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu một số thuốc. Việc ăn một bữa giàu protein và dùng chung Propanolol có thể làm tăng khoảng 50% độ khả dung sinh học của chất chẹn beta này, qua đó làm tăng nguy cơ phản ứng phụ như giảm nhịp tim, giảm huyết áp và co thắt phế quản. Các chế độ ăn giàu protein có thể làm giảm nồng độ và hiệu lực của Levodopa hay Carbidopa (thuốc trị bệnh Parkinson) và Theophyllin (trị hen và COPD).
Các thức ăn nhiều mỡ
Các thực phẩm nhiều chất béo có thể làm thay đổi dược động học của nhiều loại thuốc. Chẳng hạn, độ hấp thu Griseofulvin tăng lên đáng kể khi dùng chung với bữa ăn, đặc biệt với các thức ăn giàu mỡ, nên các thầy thuốc khuyên nên dùng chất kháng nấm này chung với một bữa ăn nhiều mỡ nhằm làm tăng hiệu lực của thuốc.
Nước ép bưởi
Gần đây người ta đề cập nhiều đến việc nước ép bưởi với lượng lớn làm tăng nồng độ trong máu của một số thuốc, đáng chú ý nhất là trường hợp sử dụng các nhóm statin (thuốc giảm cholesterol) mà nồng độ cao có thể làm tăng nguy cơ tác dụng phụ như đau cơ, viêm cơ, tiêu cơ. Song điều này không áp dụng cho việc ăn bưởi trái và không phải mọi statin đều bị tương tác. Chỉ có Simvastatin (Zocor), Lovastatin (Mevacor) và Atorvastatin (Lipitor) bị ảnh hưởng. Như vậy, những người thường xuyên uống nhiều nước ép bưởi có thể sử dụng các statin khác như Rosuvastatin (Crestor), Pravastatin (Pravachol) và Fluvastatin (Lescol).
Nước ép bưởi cũng có thể tương tác với các chất chẹn kênh calcium (dùng trong điều trị bệnh tim mạch) như Felodipin (Plendil), Amlodipin (Norvasc), Nicardipin (Cardene) và Nifedipine (Procardia, Adalate) với tác dụng phụ như tụt huyết áp tư thế. Nước ép bưởi có thể làm tăng nhẹ tác dụng phụ các thuốc điều trị rối loạn cương thuộc nhóm ức chế phosphodiesterase - Sildenafil (Viagra), vardenafil (Levitra) và tadalafil (Cialis) như cương đau, giảm huyết áp và rối loạn thị giác. Các thuốc khác có khả năng tương tác với nước ép bưởi gồm thuốc uống ngừa thai, chất chống trầm cảm ba vòng (Clomipramin), benzodiazepin (Diazepam, Temazepam, Midazolam), Budesonid, Carbamazepin, Buspiron, Ziprasidon, Amiodaron và Tacrolimus.
Vitamin C và trái cây chua
Sự hấp thụ thuốc có chứa Amphetamin (như Adderall, dùng trong điều trị ADHD) có thể giảm khi dùng chung với vitamin C hay các thực phẩm, nước ép có vị chua, vì độ hấp thụ tối ưu amphetamin xảy ra trong môi trường kiềm của đường ruột. Mặt khác, các thực phẩm làm toan hóa nước tiểu có thể khiến cho tốc độ thải Amphetamin qua đường tiểu tăng lên. Nồng độ các chất kháng histamin thế hệ mới như Cetirizin, Loratadin và đặc biệt Fexofenadin cũng giảm khi dùng chung với nước ép quả.
Cafein
Không chỉ thực phẩm ảnh hưởng lên sự chuyển hóa của thuốc mà ngược lại, đôi khi thuốc cũng tác động lên các thành phần thực phẩm như cafein. Việc dùng một số thuốc chung với cà phê, trà, nước coca và một số thực phẩm hay nước uống tăng lực vào buổi tối có thể làm tăng nồng độ cafein trong máu và gây mất ngủ. Đó là trường hợp các thuốc Ciprofloxacin, Cimetidin (chất kháng H2), Prednison và thuốc uống ngừa thai. Sự chuyển hóa cafein hình như không chịu ảnh hưởng từ các fluoroquinolon khác (có thể dùng thay cho Ciprofloxacin) và chất đối kháng histamin H2 khác (Ranitidine, Famotidine). Ngược lại, cafein có thể làm tăng nồng độ Theophyllin, dẫn tới các tác dụng phụ như bồn chồn, mất ngủ và loạn nhịp tim.
Rượu
Có sự tương tác quan trọng giữa rượu cồn và rất nhiều loại thuốc, bao gồm các chất benzodiazepin, chống trầm cảm, barbiturate, kháng histamine, opiat, giãn cơ, chống rối loạn tâm thần và chống co giật. Khi dùng chung các thuốc này với rượu, bệnh nhân bị tăng nguy cơ buồn ngủ, mất điều hòa, suy hô hấp và rối loạn vận động, có thể dẫn đến té ngã, tai nạn và chấn thương. Sự lạm dụng cùng lúc rượu và paracetamol à tăng độc cho gan. Các nhà y học khuyến cáo những người uống từ ba ly rượu trở lên không được dùng quá 4 g paracetamol mỗi ngày.
Việc uống rượu trong lúc sử dụng một số thuốc như Metronidazol (kháng sinh), Isoniazid (trị lao) hay các Sulfonylurea (trị tiểu đường) có thể gây phản ứng đỏ bừng mặt, nôn mửa và tăng nhịp tim. Rất nhiều thứ thuốc có thể tương tác với các thực phẩm thường dùng, bao gồm cả các chất bổ sung dinh dưỡng, thảo dược và bia rượu. Vì vậy, khi dùng thuốc, người bệnh phải nhìn lại chế độ ăn uống của mình, đọc kỹ các bản hướng dẫn sử dụng thuốc và tham khảo ý kiến của bác sĩ, dược sĩ và nhà tư vấn dinh dưỡng.
Những tác hại do quá trình tương tác thuốc trong điều trị
-Dùng chung đồng thời nhiều loại thuốc à có thể dẫn đến tương tác thuốcà sức khỏe;
-Tương tác thuốc à thuốc này làm thay đổi tác dụng hay tăng độc tính thuốc kia à hậu quả có lợi hoặc bất lợi với cơ thể người dùng thuốc;
-Tương tác thuốc à thuốc này làm mất tác dụng thuốc kia hoặc vô hiệu hóa tác dụng;
-Khi phân bố trong máu, 2 thuốc dùng chung cùng liên kết với Albumin trong máu, thuốc có ái lực liên kết lớn hơn sẽ đẩy thuốc kia ra thành dạng tự do, làm tăng nồng độ gây độc tính (chẳng hạn trường hợp dùng chung thuốc kháng viêm phenylbutazon với warfarin sẽ làm tăng tác dụng chống đông của warfarin, gây xuất huyết nguy hiểm);
-Phần lớn các thuốc được chuyển hóa ở gan, khi dùng 2 thuốc cùng lúc à thuốc này làm tăng hoặc giảm hoạt tính của men gan chuyển hóa, đồng thời làm giảm hoặc tăng hoạt tính trị liệu của thuốc kia à gây hậu quả xấu (Erythromycin cản trở sự chuyển hóa thuốc giãn phế quản trị suyễn Theophyllin, làm tăng độc tính của thuốc này);
-Các thuốc được chuyển hóa qua thận, tương tác thuốc khi xảy ra ở đây sẽ làm thuốc tích lũy lại trong cơ thể gây hại (kháng sinh nhóm Aminoside dùng chung với thuốc digoxin, digoxin không được bài tiết tốt sẽ tích lũy gây độc);
-Tương tác thuốc dược lực học xảy ra giữa 2 thuốc à giảm hoặc mất tác dụng thuốc kia do tác dụng 2 loại thuốc đối kháng nhau (cafein gây kích thích làm giảm tác dụng an thần của diazepam, hoặc không nên phối hợp kháng sinh Penicillin và kháng sinh Tetracyclin vì có sự đối kháng trong tác dụng diệt vi khuẩn);
Làm thế nào để hạn chế các tương tác thuốc bất lợi
Việc sử dụng nhiều thuốc là rất cần thiết trong hóa trị liệu ung thư và trong một số bệnh nhiễm khuẩn như bệnh lao, nhiễm khuẩn bệnh viện. Trong những trường hợp này, mục đích thường là để cải thiện hiệu quả điều trị và làm chậm xuất hiện tế bào ác tính hoặc vi trùng kháng thuốc. Khi dùng đồng thời nhiều thuốc, thầy thuốc đứng trước vấn đề không biết cách phối hợp thuốc nào đó ở một người bệnh cụ thể có thể dẫn đến tương tác hay không. Nếu có, thì làm thế nào để tận dụng lợi thế của tương tác nhằm có kết quả điều trị tốt hơn hoặc làm thế nào để tránh các hậu quả của tương tác có hại. Muốn tránh sai sót này, cách tốt nhất là thầy thuốc phải luôn nâng cao hiểu biết về thuốc. Không kê quá nhiều thứ thuốc không cần thiết. Nên biết rằng dùng đồng thời từ 2 loại thuốc trở lên hoặc dùng thêm một loại thuốc vào chế độ thuốc đã ổn định đều có nguy cơ gây ra tương tác thuốc. Hậu quả có thể gặp là làm thay đổi tính chất dược lý, làm thuốc độc hơn hoặc “vô hiệu” tác dụng có lợi của thuốc mới thêm vào. Dùng kháng sinh ở phụ nữ đang dùng thuốc tránh thai có thể làm giảm hiệu quả tránh thai và dẫn đến có thai ngoài ý muốn. Chẳng hạn, cần chú ý đến tương tác thuốc giữa theophyllin và erythromycin, digoxin và quinidin, rifampicin và thuốc tránh thai. Tương tác thuốc cũng có thể xảy ra do cách dùng thuốc, ví dụ cho Phenytoin và Ciprofloxacin qua ống thông dạ dày để nuôi bệnh nhân sẽ làm giảm tác dụng hấp thu thuốc. Hầu hết những sai lầm trong kê đơn là do thầy thuốc không chú ý đến chống chỉ định và tương tác thuốc. Nhiều thuốc chống chỉ định hoặc phải dùng thận trọng ở một số bệnh nhân đang có trạng thái bệnh lý nào đó (như metformin không nên dùng cho bệnh nhân suy thận hoặc không dùng thuốc chẹn beta cho bệnh nhân hen).
Để hạn chế tình trạng này, người dùng không nên sử dụng thuốc một cách tự ý và tùy tiện. Trước khi cho người bệnh sử dụng một loại thuốc nào đó để điều trị, bác sĩ đã phải tính kỹ đến mức độ hợp lý và an toàn của thuốc, cũng như phòng và tránh được sự tương tác của thuốc. Vì thế mỗi khi người bệnh muốn sử dụng bất cứ một loại thuốc nào (kể cả thuốc bổ), cũng cần phải có hướng dẫn của bác sĩ, không nên tự ý đến nhà thuốc mua về sử dụng, không nên sử dụng thuốc theo toa người khác. Thầy thuốc phải luôn nâng cao hiểu biết về thuốc, không kê quá nhiều thứ thuốc không cần thiết. Người thầy thuốc phải có những hiểu biết về cơ chế tương tác thuốc để phân tích các tương tác thuốc một cách hệ thống. Nhiệm vụ của thầy thuốc là phải hiểu những nguyên lý cơ bản của tương tác thuốc trong việc xây dựng phác đồ điều trị. Một số trường hợp tương tác thuốc xảy ra khi hướng dẫn cách dùng thuốc không đúng. Cũng với những thuốc đó, nếu có hướng dẫn cách dùng thuốc đúng sẽ không xảy ra tương tác. Do đó, muốn giảm được các tương tác thuốc thì quan trọng nhất là phải bảo đảm thuốc khi đến tay bệnh nhân có hướng dẫn cách dùng đầy đủ, chính xác. Muốn thực hiện tốt điều này thì không chỉ cần có bác sĩ kê đơn hướng dẫn cách dùng thuốc đầy đủ, chính xác mà y tá và bệnh nhân phải thực hiện đúng y lệnh.
Kiểm tra tương tác thuốc trước khi kê đơn là việc cần thiết và phải thận trọng trong kê đơn, như BV Nhi Trung Ương vừa trang bị hệ thống tra cứu thuốc với ưu điểm cho phép bác sĩ kiểm tra nhanh tương tác giữa các loại thuốc kê cho người bệnh, đảm bảo đưa ra một đơn thuốc khoa học, đạt hiệu quả điều trị cao và giảm độc tính của thuốc. Hệ thống này còn cho phép tra cứu tên thuốc dùng cho ngời bệnh, qua đó máy tính sẽ hiển thị tất cả các thông số về tính năng, thành phần thuốc cũng như những tác dụng phụ của thuốc. Giúp kiểm tra nhanh tương tác giữa các loại thuốc bác sĩ định kê đơn, để xem những loại thuốc này có hợp nhau không, nếu không sẽ phải chọn loại thuốc khác, mục đích giảm độc tính của thuốc cho người bệnh.
Ngoài ra, khi bệnh nhân đến khám bệnh mà không nhớ được tên loại thuốc trước đó đã dùng, họ có thể mô tả loại thuốc này, qua đó, máy tính sẽ hiển thị tất cả các loại thuốc có đặc điểm mô tả, giúp thầy thuốc có thể nhanh chóng nhận dạng được loại thuốc trước đó người bệnh đã dùng, sẽ rất có giá trị trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh cho bệnh nhân. Ngoài những tính năng trên, hệ thống này còn cung cấp những thông tin gợi ý cho bác sĩ xem bệnh nhân bị bệnh gì trước những triệu chứng đang có và có các loại thuốc dùng tương ứng với từng bệnh. Qua đó, sẽ giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác nhất bệnh lý và loại thuốc điều trị hiệu quả nhất. Hệ thống kiểm tra thuốc này sẽ nâng cao sử dụng thuốc an toàn, hạn chế tác dụng phụ của thuốc và các tương tác thuốc. Được biết, hệ thống này được nhập đầy đủ danh mục các tên thuốc đang lưu hành trên thế giới và cả Việt Nam. Các loại thuốc sản xuất ở Việt Nam được nhập vào hệ thống tra cứu đều được được phép lưu hành của Bộ Y tế (các thuốc được công bố trên toàn thế giới).
Về phần người dùng thuốc nên lưu ý những điểm sau để tránh tương tác thuốc: [1] Một số người xem là đối tượng nguy cơ dễ bị tương tác thuốc, hay người phải dùng nhiều thuốc vì nhiều bệnh, người cao tuổi, người hay đi khám nhiều bác sĩ, người bị bệnh mạn tính như viêm loét dạ dày - tá tràng, tim mạch (nhất là bị tăng mỡ trong máu hay dùng thuốc chống đông), động kinh, hô hấp (hen suyễn và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính); [2] Khi đi khám bệnh hoặc mua thuốc (nhất là loại OTC) tại các nhà thuốc phải kể rõ cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết mình đang dùng thuốc gì; [3] Khi đang dùng thuốc điều trị, không được dùng thêm bất cứ thuốc gì khác, kể cả thuốc y học cổ truyền hay các loại thực phẩm chức năng mà không hỏi ý kiến bác sĩ đang điều trị và [4] Nếu đang dùng đơn thuốc ghi nhiều thuốc, nếu có phản ứng bất thường xảy ra nên gọi điện thoại nhòe tư vấn của dược sĩ hoặc bác sĩ.
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Hữu Đức (2005). Tương tác thuốc và những ứng dụng trong điều trị.
2.Nguyễn Hữu Đức (2008). Hiểm họa của tương tác thuốc. http://www.thanhnien.com.vn
3.Châu Anh (2009). Tương tác thuốc và những bất lợi. http://www.anninhthudo.vn
4.Kê đơn và vấn đề tương tác thuốc (2007). YBACSI.com_Theo Sức khỏe và Đời sống
5.Phạm Quốc Vỹ (2008). Tương tác giữa thuốc và thực phẩm. http://www.dongtac.net/