Gần đây một số trường hợp viêm màng não-não gây tử vong vì nhiễm loại amíp sống tự do ở môi trường bất thường ký sinh gây bệnh đã xuất hiện tại nước ta. Nguyên nhân chính do amíp xâm nhập vào cơ thể qua đường mũi, họng từ nguồn nước nhiễm bẩn khi bị sặc nước trong lúc tắm và bơi lội. Mặc dù bệnh hiếm gặp nhưng không phải là không có, vì vậy cần chú ý đề phòng khi tắm và bôi lội ở ao hồ, sông suối, bể bơi dễ có nguy cơ nhiễm.
Các loài amíp tự do gây bệnh
Theo các nhà khoa học, trong thiên nhiên có hàng trăm loại amíp sống tự do ở trong đất, nước ngọt và ngay cả nước mặn. Từ trước đến nay chúng vẫn được xem là loại sinh vật không gây bệnh cho người và các loại động vật. Năm 1958-1959, nhà khoa học Culoertson lần đầu tiên đã phát hiện và chứng minh loại amíp tự do thuộc chi Acanthamoeba có khả năng gây bệnh viêm màng não-não cấp tính trên động vật thực nghiệm. Cũng lần đầu tiên vào năm 1964, nhà khoa học Butt đã mô tả 2 bệnh nhân viêm màng não-não bị tử vong do nhiễm amíp tự do. Sau đó có nhiều thông báo rải rác ở khắp nơi trên thế giới về các trường hợp bệnh nhân nhiễm amíp tự do bị tử vong. Đến năm 1972, nhà khoa học R.C. Carter thông báo có 69 người bệnh tử vong do nhiễm amíp tự do; trong đó có 57 bệnh nhân ở Úc, Mỹ, Tiệp Khắc, Tân Tây Lan, Anh, Bỉ và 12 trường hợp ở các nước khác. Theo thống kê tại Mỹ, từ năm 1962-2011 có 123 bệnh nhân mắc bệnh này và tử vong. Gần đây năm 2013, có 2 bệnh nhân tử vong được phát hiện bị nhiễm bệnh ở Mỹ sau khi bơi lội trong hồ Havasu thuộc bang Arizona; hàng năm vẫn ghi nhận một số trường hợp mắc và tử vong. Có thể nói bệnh amíp tự do bất thường ký sinh gây bệnh cho người đã thấy ở nhiều nước trên thế giới nhưng ít gặp ở Việt Nam. Tuy vậy tại nước ta vào năm 1974, các nhà khoa học đã phát hiện thấy một bệnh nhân viêm não có triệu chứng lâm sàng diễn biến rất nhanh và đột ngột bị tử vong; khi làm xét nghiệm huyết thanh miễn dịch cho kết quả dương tính với kháng nguyên amíp Hartmanella. Mãi đến năm 2012 có 2 trường hợp tử vong ở Thành phố Hồ Chí Minh được xác định do nhiễm loại đơn bào chân giả Naegleria fowleri được quen gọi là amíp ăn não người. Đến nay, các nhà khoa học đã phân lập được 3 chi amíp tự do gây bệnh cho người là chi Hartmanella, trong chi này có loài Hartmanella castellani và Hartmanella culbertsoni; chi Acanthamoeba có loài Acanthamoeba astronyxis và chi Naegleria có loài Naegleria fowleri.

Tắm và bơi hội trong nước bẩn dễ bị viêm màng não-não do amíp tự do xâm nhập (ảnh minh họa)
Đặc điểm của các loại amíp tự do
Ba chi amíp sống tự do bất thường ký sinh gây bệnh cho người có các đặc điểm khác nhau về hình thể, sinh học và sự gây bệnh.
Về hình thể: Amíp thuộc chi Hartmanella có kén hình cầu, vỏ nhẵn; thể hoạt động di chuyển chậm, có chân giả ngắn; trong nhân có trung thể lớn. Amíp thuộc chi Acanthamoeba có kén hình góc cạnh, thể hoạt động di chuyển phóng chân giả dài không đều. Amíp thuộc chi Naegleria có kén hình cầu có hai lớp vỏ, vỏ trong dày, vỏ ngoài mỏng; thể hoạt động phóng chân giả từ từ, chân giả hình bán cầu; đôi khi amíp biến dạng có roi, thường có 2 roi, đôi khi có từ 1 đến 3 roi tùy theo môi trường sống ký sinh.
Về sinh học: Amíp tự do thường sống ở những nơi có nước như ao hồ, sông suối... Vốn là amíp tồn tại trong thiên nhiên nên chúng có khả năng sống thích nghi tốt với điều kiện ngoại cảnh trong phạm vi nhiệt độ từ 0oC đến 40oC với môi trường có độ mặn khác nhau, trong điều kiện yếm khí hoặc có nhiều khí oxy, carbonic, sulfur, ammoniac... Amíp tự do ăn các loại vi khuẩn, những chất hữu cơ thối rữa. Kén của amíp tự do được tạo ra ở ngoại cảnh và điều kiện ẩm. Với sự có mặt của vi khuẩn, amíp cũng dễ dàng hình thành kén ở ngoại cảnh. Các loại amíp vốn sống tự do ở môi trường ngoại cảnh nhưng có lúc bất thường xâm nhập vào mô các loại động vật hoặc người để sống ký sinh và gây bệnh.
Về sự gây bệnh: Ba chi của amíp tự do đã nêu trên đều có thể gây bệnh cho người khi chúng xâm nhập vào cơ thể và bất thường ký sinh nhưng phổ biến nhất là những loài amíp thuộc chi Acanthamoeba và Naegleria, đặc biệt là loài Naegleria fowleri. Thực tế amíp tự do gây viêm màng não-não không phải do người bệnh bị nhiễm theo đường tiêu hóa hoặc lây bệnh trực tiếp từ người sang người mà chủ yếu là do tắm và bơi lội ở các bể tắm, ao hồ, sông suối... hay hít phải amíp thể hoạt động hay kén amíp trong không khí, sặc nước bẩn qua đường mũi, họng. Chất nhầy ở môi trường mũi, họng là môi trường tạo điều kiện thuận lợi cho amíp tự do cư trú. Từ mũi, họng amíp tự do đi lên hành não rồi xâm nhập qua nền sọ vào màng não, lan tỏa vào não và ký sinh tạo thành những túi hoại tử.
Bệnh do amíp thuộc chi Hartmanella gây nên thường diễn biến mạn tính. Bệnh do amíp thuộc chi Naegleria gây nên thường diễn biến cấp tính. Thời gian ủ bệnh khoảng từ 3 đến 5 ngày khi amíp tự do xâm nhập cơ thể, giai đoạn này thường có triệu chứng nhẹ của viêm đường hô hấp trên nhưng người bệnh ít chú ý đến. Sau đó bệnh khời phát đột ngột, sốt cao từ 39oC đến 40oC, đau họng, nghẹt mũi, nhức đầu dữ dội... Bệnh tiến triển rất nhanh, sau 2 đến 3 ngày thấy xuất hiện triệu chứng viêm màng não, rồi viêm não. Người bệnh rơi vào tình trạng lú lẫn, mất ý thức rồi đi vào hôn mê; có thể bị co giật và liệt. Hậu quả làm bệnh nhân tử vong sớm trong vòng từ 4 đến 7 ngày.
Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
Việc chẩn đoán xác định bệnh thường căn cứ vào xét nghiệm dịch não tủy tìm amíp, trường hợp bệnh nhân đã tử vong có thể tìm amíp hiện diện ở mô tế bào não để chẩn đoán hồi cứu. Có thể nuôi cấy amíp phát triển trong môi trường thích hợp như môi trường Willaert sẽ cho kết quả tốt để xác định mầm bệnh, lấy bệnh phẩm từ dịch não tủy. Ngoài ra cũng có thể gây nhiễm cho chuột nhắt bằng phương pháp tiêm dịch não tủy của người bệnh vào não hoặc nhỏ vào mũi chuột, sau đó khoảng 4 đến 7 ngày chuột thường chết, mổ não chuột để tìm amíp và xác định chẩn đoán. Việc chẩn đoán huyết thanh trong trường hợp này ít có giá trị vì hiệu giá kháng thể thấp. Có thể dùng các phương pháp sinh học phân tử như PCR (polymerase chain reaction), chụp phim cộng hưởng từ MRI (magnetic resonance imaging) để chẩn đoán.

Amíp tự do bất thường ký sinh gây bệnh viêm màng não-não (ảnh minh họa)
Về điều trị, các loại thuốc đặc hiệu thường dùng để chữa trị bệnh amíp như emetin, dehydroemetin, metronidazol... và những loại kháng sinh thông thường không có tác dụng đối với amíp tự do. Trên động vật thực nghiệm, một số nhà khoa học nghiên cứu cho thấy loại thuốc sulfadiazin và amphotericin B có tác dụng diệt được amíp tự do, đặc biệt có hiệu quả đối với loại amíp Naegleria fowleri. Phòng bệnh amíp sống tự do bất thường xâm nhập vào cơ thể người ký sinh để gây bệnh tốt nhất bằng cách chỉ nên tắm và bơi lội ở những nơi nước sạch, nên sử dụng dụng cụ kẹp mũi bảo vệ khi tắm và bơi lội trong các ao hồ, sông suối, bể bơi bị nhiễm bẩn có khả năng hiện diện mầm bệnh. Lưu ý khi tắm và bơi lội ở các hồ ao, sông suối, ngay các bể bơi không được làm vệ sinh tốt thì không nên dùng chân khuấy đảo các chất bẩn ở dưới đáy nước lên vì chẳng may để nước bẩn xộc lên mũi, họng sẽ tạo điều kiện, cơ hội cho amíp tự do xâm nhập vào cơ thể, bất thường ký sinh và gây bệnh.
Lời khuyên của thầy thuốc
Mặc dù các trường hợp amíp sống tự do bất thường ký sinh gây bệnh viêm màng não-não cho người hiếm gặp nhưng không phải là không có trong môi trường sống hiện tại. Ở nước ta đã ghi nhận, chẩn đoán xác định một số trường hợp mắc bệnh và tử vong. Do hiếm gặp nên trên thực tế người bệnh và các cơ sở y tế có thể bị bỏ sót trong quá trình phát hiện và chẩn đoán bệnh. Cần cảnh báo và lưu ý đến bệnh lý này, khi đã bị mắc bệnh thì tỷ lệ tử vong sẽ rất cao.