Cập nhật tháng 6/2015. Fact sheet N°391. Tổ chức Y tế thế giới (WHO)-Nước uống và sức khỏe (Drinking-water). Nước an toàn và có sẵn là quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng cho dù nó được sử dụng để ăn uống, sinh hoạt, sản xuất thực phẩm hoặc các mục đích giải trí. Cải thiện cấp nước và vệ sinh môi trường và quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên nước có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia và đóng góp đáng kể vào việc giảm nghèo.
 |
| Không nên uống nhiều nước sau khi hoạt động mạnh |
Năm 2010, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (UN General Assembly) thừa nhận công khai quyền con người về nước và vệ sinh môi trường, mọi người đều có quyền tiếp cận tới nước đầy đủ, liên tục, an toàn, có thể chấp nhận, dễ tiếp cận và giá cả phải chăng cho sử dụng cá nhân và trong gia đình.
Tiếp cận tới nước (Access to water)
Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG 7) về nước uống đã được đáp ứng toàn cầu trong năm 2010 là giảm một nửa tỷ lệ dân số thế giới không được tiếp cận bền vững với nước sạch, 48 nước kém phát triển không đáp ứng được mục tiêu nhưng những tiến bộ đáng kể đã được thực hiện với 42% dân số hiện nay ở các nước này tiếp cận với nguồn nước sạch được cải thiện từ năm 1990.Sự bất bình đẳng về địa lý, văn hóa xã hội và kinh tế sâu sắc vẫn tồn tại không chỉ giữa các khu vực nông thôn và thành thị mà còn ở các thị trấn và thành phố nơi người dân sống có mức thu nhập thấp, các khu định cư không chính thức hoặc bất hợp pháp thường ít được tiếp cận với nguồn nước sạch được cải thiện so với các cư dân khác.
Nước và sức khỏe (Water and health)
Nước bị ô nhiễm và vệ sinh môi trường kém có liên quan đến sự lan truyền của các bệnh như dịch tả, tiêu chảy, kiết lỵ, viêm gan A, thương hàn và bệnh bại liệt. Các dịch vụ về nước và vệ sinh vắng mặt, không đầy đủ hoặc quản lý không thích hợp làm cho các cá nhân phơi nhiễm với nguy cơ sức khỏe có thể phòng ngừa được đặc biệt đúng trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe nơi mà cả bệnh nhân và đội ngũ nhân viên có nguy cơ bị lây nhiễm và bệnh tật thêm khi các dịch vụ về nước và vệ sinh môi trường còn thiếu. Trên toàn cầu, 15% bệnh nhân bị lây nhiễm trong thời gian nằm viện và tỷ lệ này lớn hơn nhiều ở các nước có thu nhập thấp. Xử lý không đầy đủ nước thải đô thị, công nghiệp và nông nghiệp có nghĩa là nước sạch của hàng trăm triệu người có nguy cơ ô nhiêm nghiêm trọng hay ô nhiễm hóa học.
 |
| Bất chấp nguồn nước uống bị nhiễm bẩn |
Khoảng 842.000 người được ước tính bị chết mỗi năm vì tiêu chảy do vệ sinh tay, vệ sinh môi trường và nước uống không an toàn nhưng tiêu chảy là bệnh có thể phòng ngừa được và con số tử vong của 361.000 trẻ em ở độ tuổi dưới 5 mỗi năm có thể tránh được mỗi năm, nếu các yếu tố nguy cơ này được giải quyết, những nơi mà nước là không có sẵn thì mọi người có thể quyết định rửa tay không phải là một ưu tiên, do đó làm tăng thêm khả năng mắc bệnh tiêu chảy và các bệnh khác. Tiêu chảy là bệnh được biết đến rộng rãi nhất có mối liên quan đến thực phẩm và nước bị ô nhiễm nhưng cũng có những mối nguy hiểm khác. Gần 240 triệu người bị ảnh hưởng bởi bệnh sán máng (schistosomiasis)-một bệnh cấp tính và mãn tính bị nhiễm ký sinh trùng do phơi nhiễm với nước bị nhiễm khuẩn. Ở nhiều nơi trên thế giới, côn trùng sống hay sinh đẻ trong nước mang và lan truyền các bệnh như sốt xuất huyết. Một số các loài côn trùng này, được gọi là vectơ, đẻ trong nước sạch, chứ không phải là nước bẩn và các thùng chứa nước sạch hộ gia đình có thể coi là những nơi sinh sản của muỗi, sự can thiệp đơn giản là che đậy các nơi chứa nước có thể làm giảm sinh sản của vector và cũng có thể có một đồng lợi ích trong việc giảm ô nhiễm nước do phân ở cấp hộ gia đình.
Hiệu quả kinh tế và xã hội(Economic and social effects)
Khi nước đến từ những nguồn nước được cải thiện và dễ tiếp cận hơn, mọi người dành ít thời gian và nỗ lực về thể chất để thu thập nó nghĩa là họ có thể được sản xuất theo những cách khác, nó cũng có thể dẫn đến sự an toàn cá nhân lớn hơn bằng cách giảm sự cần thiết phải thực hiện những chuyến đi dài hoặc nguy hiểm để lấy nước, nguồn nước tốt hơn cũng có nghĩa là ít chi tiêu về y tế bởi vì con người ít có khả năng bị ốm và phải chịu chi phí y tế và có khả năng tốt hơn để duy trì sản xuất kinh tế. Với trẻ em đặc biệt có nguy cơ bị các bệnh liên quan đến nước, việc tiếp cận tới các nguồn nước được cải thiện có thể dẫn đến sức khỏe tốt hơn và do đó đi học tốt hơn, với những tầm quan trọng lâu dài cho cuộc sống của chúng.
Nguồn nước(Water sources)
Mục tiêu MDG về nước được đo bằng một biện pháp gián tiếp việc sử dụng nguồn nước uống 'cải thiện' hoặc 'không được cải thiện' (‘improved’ or ‘unimproved’ drinking-water sources)nhưng 'nguồn cải thiện' là không nhất thiết phải an toàn. Ít nhất 1,8 tỷ người sử dụng một nguồn nước uống bị ô nhiễm với các chất phân. Một tỷ lệ đáng kể của nước cấp thông qua đường ống bị ô nhiễm, đặc biệt là nơi cung cấp nước không liên tục hoặc xử lý không đầy đủ ngay cả khi nguồn nước là tốt thì nước cũng có thể bị ô nhiễm trong khi vận chuyển hoặc lưu trữ, đặc biệt là trong môi trường ở những nơi vệ sinh là không đủ.
 |
| Thiếu nước uống là một vấn đề lớn ở Trung Quốc |
Những thách thức (Challenges)
Biến đổi khí hậu, gia tăng tình trạng khan hiếm nước, tăng trưởng dân số, thay đổi nhân khẩu học và đô thị hóa đã đặt ra những thách thức đối với các hệ thống cấp nước. Đến năm 2025, một nửa dân số thế giới sẽ sống ở các khu vực căng thẳng về nước. Tái sử dụng nước thải, thu hồi nước, chất dinh dưỡng, hoặc năng lượng, đang trở thành một chiến lược quan trọng.Các quốc gia đang ngày càng sử dụng nước thải để tưới - ở các nước đang phát triển điều này chiếm 7% diện tích đất được tưới tiêu. Trong khi việc thực hành này nếu được thực hiện không đúng cách sẽ gây ra nguy cơ sức khỏe, việc xử lý an toàn nước thải có thể thu được nhiều lợi ích, bao gồm tăng sản xuất lương thực. Sự lựa chọn các nguồn nước dùng để uống và tưới tiêu sẽ tiếp tục phát triển, và ngày càng phụ thuộc vào nguồn nước ngầm và nguồn nước thay thế, bao gồm cả nước thải. Biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến những biến động về nước mưa được thu hoạch. Xử lý tất cả các nguồn tài nguyên nước sẽ cần phải được cải thiện để đảm bảo nguồn cung cấp và chất lượng.
Đáp ứng của WHO(WHO's response)
Là cơ quan quốc tế về y tế công cộng và chất lượng nước, WHO dẫn đầu các nỗ lực toàn cầu nhằm ngăn ngừa sự lây truyền các bệnh qua đường nước, tư vấn cho chính phủ về việc phát triển các quy định và các mục tiêu dựa trên sức khỏe. WHO sản xuất một loạt các hướng dẫn về chất lượng nước bao gồm cả nước uống, an toàn sử dụng nước thải và môi trường nước giải trí an toàn. Các hướng dẫn chất lượng nước được dựa trên việc xử lý các nguy cơ và từ năm 2004 Hướng dẫn về chất lượng nước uống (Guidelines for Drinking-water Quality) bao gồm việc thúc đẩy nhà máy nước an toàn (Water Safety Plans) để xác định và ngăn ngừa các nguy cơ trước khi nước bị ô nhiễm. Trong năm 2015, WHO giới thiệu khái niệm về Nhà máy an toàn về vệ sinh (Sanitation Safety Plans) nhằm hỗ trợ thực hiện các hướng dẫn xử lý nước thải. WHO làm việc nhằm đẩy mạnh việc xử lý và thực hành đánh giá nguy cơ hiệu quả trong tất cả các nhóm, bao gồm cả các nhà cung cấp nước uống, các công ty xử lý nước thải, nông dân, cộng đồng và cá nhân.
|
| Đề án phân phối nước sạch |
Kể từ năm 2014, WHO đã thử nghiệm sản phẩm xử lý nước hộ gia đình đối với tiêu chí thực hiện dựa trên sức khỏe của WHO thông qua ‘Đề án' (Scheme) quốc tế của WHO nhằm đánh giá công nghệ xử lý nước hộ gia đình (Evaluate Household Water Treatment Technologies), mục tiêu của đề án là đảm bảo rằng các sản phẩm được phân phối bảo vệ người tiêu dùng khỏi các mầm bệnh gây ra bệnh tiêu chảy và tăng cường các cơ chế chính sách, quy định và giám sát ở cấp quốc gia để hỗ trợ mục tiêu phù hợp và sử dụng thống nhất và chính xác của những sản phẩm như thế. WHO làm việc chặt chẽ với UNICEF trong một số lĩnh vực liên quan đến nước và sức khỏe như kế hoạch hành động toàn cầu lồng ghép nhằm chấm dứt tử vong trẻ em ở các bệnh có thể phòng ngừa như bệnh viêm phổi và tiêu chảy vào năm 2025 (global action plan to end preventable child deaths from pneumonia and diarrhoea_GAPPD) đặt ra một số mục tiêu phòng chống và điều trị bao gồm cả việc đạt được sự tiếp cận phổ cập tới nước uống tại các cơ sở chăm sóc y tế và nhà ở vào năm 2030. Các phương tiện thực hiện cho công việc trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe gặp nhau trên một số lĩnh vực y tế, bao gồm cả bảo hiểm y tế toàn dân có chất lượng và hai cơ quan đã thiết lập một kế hoạch làm việc để từng bước hướng tới tiếp cận phổ cập tại cấp cơ sở, quốc gia và toàn cầu.