Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2014, mặc dù tình hình sốt rét thế giới năm 2013 có nhiều cải thiện so với năm 2012 nhưng nguy cơ sốt rét “quay trở lại” vẫn luôn tiềm ẩn, thậm chí “xóa sổ” thành quả đã đạt được. Thông tin cập nhật của WHO sẽ cung cấp những dữ liệu cũng như rào cản (ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, muỗi kháng hóa chất) trong phòng chống và loại trừ sốt rét toàn cầu năm 2015.
Một số dữ liệu chính về bệnh sốt rét
-Sốt rét là một bệnh nhiệt đới được gây ra bởi ký sinh trùng, đe dọa đến cuộc sống nhiều người trên thế giới. Bệnh lan truyền từ người này sang người khác do muỗi nhiễm ký sinh trùng đốt;
-Năm 2013, có khoảng 584.000 trường hợp tử vong (khoảng từ 367.000 đến 755.000) hầu hết là trẻ em châu Phi;
-Bệnh sốt rét có thể ngăn chặn và điều trị được;
-Những biện các pháp kiểm soát và ngăn chặn sốt rét gia tăng đã được thực hiện để làm giảm gánh nặng đáng kể sốt rét ở nhiều nơi trên phạm vi toàn cầu;
-Khách du lịch không có miễn dịch từ những vùng không có bệnh sốt rét rất dễ bị bệnh diễn tiến nghiêm trọng khi họ đi vào vùng sốt rét lưu hành;
Theo ước tính mới nhất được ấn bản vào tháng 12.2014, có khoảng 198 triệu ca mắc sốt rét trong năm 2013 và 584.000 ca tử vong. Tỷ lệ tử vong do sốt rét giảm 47% trên toàn cầu kể từ năm 2000 và giảm 54% ở khu vực châu Phi.
Hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra ở trẻ em châu Phi-nơi mà mỗi phút có một trẻ em tử vong do sốt rét. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em châu Phi đã giảm khoảng 58% kể từ năm 2000.
Cập nhật thông tin về sốt rét thế giới
Bệnh sốt rét nguyên nhân do ký sinh trùng Plasmodium gây ra. Ký sinh trùng lan truyền từ người này sang người khác thông qua muỗi Anopheles nhiễm KSTSR, được gọi là “véc tơ sốt rét”, chúng đốt chủ yếu vào tối và gần sáng. Có 4 loài ký sinh trùng gây bệnh cho người: Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax, Plasmodium malariae, Plasmodium ovale. Hai loài Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax hai loài gây bệnh phổ biến ở người, trong đó Plasmodium falciparum gây ra hầu hết các ca tử vong trên thế giới.
Trong những năm gần đây, một vài trường hợp mắc sốt rét ở người cũng xảy ra với ký sinh trùng mang tên Plasmodium knowlesi – một loài ký sinh trùng gây bệnh ở khỉ và xảy ra ở một số khu vực rừng Đông Nam châu Á.
Phương thức lan truyền
Sốt rét lan truyền qua muỗi Anopheles đốt. Mức độ lan truyền phụ thuộc vào mối quan hệ các yếu tố như ký sinh trùng, véc tơ, con người và môi trường.
Có 20 loài muỗi Anopheles khác nhau có vị trí quan trọng trên thế giới. Tất cả các véc tơ quan trọng đốt người vào buổi tối. Muỗi Anopheles đẻ trứng trong nước và mỗi loài có sở thích mồi trường đẻ trứng khác nhau. Ví dụ như một số loài thích đẻ ở nước nông và sạch chẳng hạn như vũng nước, đồng lúa và các dấu chân. Sự lan truyền mạnh hơn xảy ra ở những nơi mà tuổi thọ của muỗi dài hơn (điều kiện tốt để ký sinh trùng hoàn thành chu kỳ phát triển trong cơ thể muỗi) và nơi mà muỗi thích đốt người hơn đốt động vật. Ví dụ, tuổi thọ dài và thói quen đốt người cao của các véc tơ châu Phi là lý do chính tại sao hơn 90% số ca tử vong sốt rét tập trung ở châu Phi.
Lan truyền sốt rét cũng phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, điều này có thể ảnh hưởng đến số lượng vào sự tồn tại của muỗi Anopheles, chẳng hạn như lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm. Ở nhiều nơi, lan truyền sốt rét xảy ra theo mùa với đỉnh bệnh là trước và sau mùa mưa. Dịch bệnh sốt rét có thể xảy ra khi điều kiện thời tiết và các điều kiện khác đột nhiên phù hợp cho lan truyền sốt rét ở những nơi mà người dân có ít hoặc không có miễn dịch sốt rét. Sốt rét cũng có thể xảy ra khi những người có hệ thống miễn dịch thấp di chuyển đến những nơi mà cường độ lan truyền sốt rét cao ví dụ như để tìm việc làm hoặc là những người tị nạn.
Miễn dịch con người là yếu tố quan trọng khác, đặc biệt những người trưởng thành ở khu vực có lan truyền sốt rét trung bình hoặc ở cường độ cao. Miễn dịch một phần được phát triển qua nhiều năm tiếp xúc và khi nó chẳng bao giờ cung cấp bảo vệ đầy đủ, nó làm giảm nguy cơ mà nhiễm sốt rét sẽ là nguyên nhân gây bệnh nghiêm trọng. Vì lý do này, hầu hết các ca tử vong sốt rét ở châu Phi xảy ra ở trẻ em, trong khi ở những nơi mà lan truyền sốt rét ít hơn và miễn dịch thấp, tất cả các nhóm tuổi điều có nguy cơ.
Các triệu chứng và biến chứng do sốt rét
Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, một cá nhân không có miễn dịch, các triệu chứng xuất hiện trong khoảng 7 ngày hoặc nhiều hơn (thường trung bình từ 10-15 ngày) sau khi bị muỗi nhiễm ký sinh trùng đốt. Các triệu chứng đầu tiên bao gồm sốt, nhức đầu, ớn lạnh và nôn có thể biểu hiện nhẹ và khó khăn để nhận ra bệnh sốt rét. Nếu không được điều trị trong vòng 24 giờ, bệnh sốt rét do P. falciparum có thể tiến triển đến bệnh nặng, nhiều biến chứng nghiêm trọng như sốt rét ác tính thể não, sót rét gây suy đa phủ tạng,...thường dẫn đến tử vong.
Trẻ em bị sốt rét nặng thường xuyên phát triển một hoặc nhiều các triệu chứng sau đây: thiếu máu nặng, suy hô hấp liên quan đến toan chuyển hóa, hoặc sốt rét ác tính thể não. Ở người lớn, nhiều cơ quan liên đới cũng thường gặp trên thực hành lâm sàng. Tại các khu vực có bệnh sốt rét lưu hành, những người có thể phát triển khả năng miễn dịch một phần, cho phép các bệnh nhiễm trùng không có triệu chứng xảy ra.
Đối với cả P. vivax và P. ovale, trên lâm sàng có thể gặp tái phát có thể xảy ra trong vài tuần đến nhiều tháng sau khi nhiễm lần đầu, ngay cả khi bệnh nhân đã rời khỏi khu vực lan truyền sốt rét. Những tình tiết mới phát sinh từ các hình thức gan không hoạt động được gọi là thể ngủ - hypnozoites (thể này vắng mặt ở loài P. falciparum, P. malariae và P. knowlesi);
Điều trị đặc biệt nhắm mục tiêu vào các giai đoạn trong gan là cần thiết cho việc chữa trị hoàn chỉnh cũng như các liệu pháp thuốc đặc hiệu diệt thể vô tính cũng với thuốc diệt giao bào chống lây lan hay diệt thể ngủ chống tái phát xa.
Những ai có nguy cơ mắc sốt rét?
Khoảng một nửa dân số thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Hầu hết các trường hợp mắc và tử vong do sốt rét xảy ra ở tại khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi. Tuy nhiên, châu Á, khu vực Mỹ Latinh và đến một mức độ thấp hơn như ở Trung Đông và các nước châu Âu cũng bị ảnh hưởng. Trong năm 2014, có 97 quốc gia và vùng lãnh thổ đang xảy ra lan truyền sốt rét.
Các nhóm quần thể có nguy cơ cao bao gồm:
-Trẻ em ở tại những khu vực lan truyền sốt rét ổn định chưa phát triển, hình thành đáp ứng miễn dịch bảo vệ bản thân chống lại các hình thức nghiêm trọng nhất của bệnh;
-Phụ nữ đang mang thai không / hoặc chưa có miễn dịch à do vậy khi mắc sốt rét thì tỷ lệ sẩy thai cao và có thể dẫn đến tử vong mẹ;
-Phụ nữ mang thai có hệ thống miễn dịch tạm thời ở những khu vực lan truyền sốt rét cao. Bệnh sốt rét có thể dẫn đến sẩy thai và trẻ khi sơ sinh cân nặng thấp, đặc biệt là trong lần mang thai đầu tiên và lần thứ hai;
-Phụ nữ mang thai nhiễm HIV có miễn dịch tạm thời ở những khu vực lan truyền sốt rét ổn định, trong tất cả các lần mang thai. Phụ nữ nhiễm bệnh sốt rét nhau thai cũng có nguy cơ truyền nhiễm HIV cho trẻ sơ sinh;
-Những người có HIV/AIDS;
-Du khách quốc tế từ những vùng không lưu hành sốt rét đến vùng có bệnh sốt rét lưu hành sẽ diễn biến nặng hơn bởi vì họ thiếu miễn dịch;
-Những người nhập cư từ các khu vực lưu hành sốt rét và con cái của họ sống trong vùng không lưu hành sốt rét và trở về đất nước của họ để thăm bạn bè và người thân là những người có nguy cơ do hệ miễn dịch bị suy giảm hoặc không có miễn dịch.
Chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán sớm và điều trị kip thời bệnh sốt rét, sớm làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và ngăn chặn các trường hợp tử vong. Điều này cũng góp phần làm giảm lan truyền bệnh sốt rét. Hiệu quả điều trị tốt nhất, đặc biệt là sốt rét do P. falciparum cần điều trị thuốc kết hợp có thành phần artemisinin hoặc dẫn suất (ACTs).
TCYTTG khuyến cáo rằng tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc sốt rét được xác định bằng cách sử dụng test chẩn đoán nhanh dựa vào kháng nguyên ký sinh trùng (test chẩn đoán nhanh RDTs hoặc kiểm tra kính hiển vi) nên tiến hành trước khi tiến hành điều trị.
Kết quả xác nghiệm dương tính với ký sinh trùng có thể thực hiện trong khoảng thời gian 15 phút hoặc ít hơn. Việc điều trị chỉ dựa trên các triệu chứng lâm sàng chỉ được tiến hành khi không thể thực hiện được xét nghiệm.
Khuyến nghị chi tiết hơn có sẵn trong “Hướng dẫn cho việc điều trị bệnh sốt rét” (ấn bản thứ hai, năm 2010).
Sốt rét kháng thuốc- Một rào cản và trở ngại kỹ thuật cho việc lựa chọn điều trị
Ký sinh trùng kháng thuốc sốt rét là một vấn đề nghiêm rọng đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới. Chủng P. falciparum kháng với các loại thuốc sốt rét thế hệ trước đây như chloroquin và sulfadoxine-pyrimethamine, trở nên phổ biến trong những năm 1970 và 1980, điều này đã phá vỡ các nỗ lực kiểm soát bệnh sốt rét và làm gia tăng trở lại đe dọa tính mạng trẻ em.
Trong những năm gần đây, ký sinh trùntg kháng artemisinin đã được phát hiện ở nhiều quốc gia trong tiểu vùng sông Mê Kông gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam. Trong khi có rất nhiều yếu tố có thể góp phần vào sự xuất hiện và lây lan tình trạng kháng thuốc, nhất là việc sử dụng đơn trị liệu đường uống thuốc artemisinin được cho là một yếu tố quan trọng làm cho ký sinh trùng kháng thuốc trầm trọng hơn.
Khi được điều trị đơn trị liệu artemisinin bằng đường uống, bệnh nhân có thể ngừng điều trị sớm sau khi các triệu chứng sốt rét biến mất. Điều này dẫn đến điều trị không đầy đủ, không đủ liều và những bệnh nhân này vẫn còn ký sinh trùng dai dẳng trong máu. Nếu không có một thuốc thứ hai được đưa ra như là thuốc kết hợp đi cùng (cung cấp với dạng thuốc ACTs), những ký sinh trùng kháng thuốc này tồn tại và có thể lan sang muỗi và sau đó truyền sang người khác.
Nếu kháng artemisinin phát triển và lây lan sang các khu vực địa lý rộng lớn khác, hậu quả đối với sức khỏe công cộng có thể là thảm khốc. TCYTTG khuyến cáo giám sát thường xuyên tình trạng ký sinh trùng kháng thuốc sốt rét và hỗ trợ các quốc gia để tăng cường các nỗ lực trong việc kiểm soát tình trạng kháng thuốc sốt rét ở những khu vực quan trọng.
Những khuyến nghị chi tiết hơn đưa đưa ra trong Kế hoạch toàn cầu của TCYTTG (2011) dùng để ngăn chặn kháng artemisinin (GPARC). Đối với các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông, TCYTTG đã xuất bản khung làm việc để hành động với tiêu đề “Phản ứng sự xuất hiện kháng artemisinin ở tiểu vùng sông Mê Kông năm 2013”.
Các biện pháp phòng chống sốt rét
Kiểm soát véc tơ là biện pháp chính để giảm lan truyền bệnh sốt rét trong cộng đồng. Đây là sự can thiệp duy nhất có thể làm giảm lan truyền sốt rét từ mức độ lan truyền rất cao xuống mức thấp nhất hoặc không có sốt rét. Đối với cá nhân, việc bảo vệ cá nhân chống lại muỗi đốt là cách tốt nhất trong công tác phòng chống bệnh sốt rét. Có hai hình thức kiểm soát vector hiệu quả nhất.
Màn tẩm hóa chất chống muỗi đốt
Màn tẩm hóa chất diệt côn trùng có tác dụng tòn lưu kéo dài (Long-lasting insecticidal nets-LLINs) là biện pháp ưa thích hơn dùng màn ITNs để phòng chống muỗi đốt trong các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng. TYTTG khuyến cáo màn tẩm hóa chất cần bao phủ cho tất cả những người có nguy cơ cao và trong hầu hết các điểm lưu hành sốt rét. Cách hiệu quả nhất để đạt được điều này là thông qua việc cung cấp màn tẩm hóa chất miễn phí cho những người có nguy cơ để mọi người có màn tẩm hóa chất bảo vệ khi ngủ hàng đêm.
Phun tồn lưu trong nhà
Phun tồn lưu trong nhà (Indoor residual spraying_IRS) với hóa chất diệt côn trùng là một biện pháp hiệu quả để làm giảm nhanh chóng lan truyền sốt rét. Hiệu quả được ghi nhận khi ít nhất 80% số nhà mục tiêu được phun tồn lưu. Phun hóa chất tồn lưu trong nhà có hiệu quả từ 3 - 6 tháng, tùy thuộc vào loại hóa chất được sử dụng và loại bề mặt tường vách được phun. Hóa chất DDT có thể hiệu quả kéo dài từ 9 - 12 tháng trong một số trường hợp. Có những loại hóa chất phun tồn lưu trong nhà tồn lưu lâu hơn so với các loại hóa chất hiện tại, cũng như các nhóm hóa chất diệt côn trùng mới được sử dụng phun tồn lưu trong nhà đang được phát triển.
Thuốc chống sốt rét cũng có thể được sử dụng để ngăn chặn bệnh sốt rét. Đối với du khách, sốt rét có thể được ngăn chặn thông qua điều trị dự phòng, ngăn chặn giai đoạn nhiễm trùng sốt rét trong máu, do đó ngăn ngừa bệnh sốt rét. Ngoài ra, TCYTTG khuyến cáo điều trị dự phòng gián đoạn với sulfadoxine-pyrimethamine cho phụ nữ mang thai sống ở những khu vực có lan truyền sốt rét cao, 3 tháng một lần đi khám thai theo lịch trình (lồng ghép). Tương tự như vậy, đối với trẻ sơ sinh sống trong các khu vực có lan truyền cao ở châu Phi, 3 liều điều trị dự phòng liên tục với sulfadoxine-pyrimethamine được khuyến khích cùng với lịch tiêm chủng thường xuyên.
Trong năm 2012, TCYTTG đề nghị kiểm soát sốt rét theo mùa bằng hoá chất như là một phần bổ sung chiến lược phòng chống bệnh sốt rét cho các điểm thuộc tiểu vùng Sahel của châu Phi. Chiến lược liên quan đến việc quản lý các khóa hàng tháng khi dùng amodiaquine cộng với Sulfadoxine-pyrimethamine cho tất cả các trẻ em dưới 5 tuổi trong mùa làn truyền sốt rét cao.
Kháng hóa chất diệt côn trùng
Phần lớn sự thành công trong việc kiểm soát bệnh sốt rét là do kiểm soát tốt khâu véc tơ. Kiểm soát véc tơ phụ thuộc rất nhiều nhiều yếu tố như việc sử dụng các loại hóa chất trong nhóm pyrethroides, đây là nhóm hóa chất duy nhất hiện đang được đề nghị dùng tẩm màn chống muỗi đốt rất hiệu quả. Trong những năm gần đây, muỗi kháng với nhóm pyrethroides đã nổi lên và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới.
Ở một số vùng, muỗi đã kháng tất cả bốn nhóm hóa chất diệt côn trùng được sử dụng trong y tế cộng đồng được phát hiện. May mắn thay, tình trạng muỗi kháng hóa chất rất hiếm khi kết hợp với hiệu quả phòng chống véc tơ giảm sút, do vậy tẩm màn ngủ bằng hóa chất hay các loại màn LLINs và phun tồn lưu trong nhà vẫn là công cụ có hiệu quả nhất trong việc kiểm soát muỗi truyền bệnh.
Tuy nhiên, các nước trong vùng sa mạc Sahara, châu Phi và Ấn Độ là mối quan tâm đáng kể. Những quốc gia này có đặc điểm chung là mức độ lan truyền sốt rét và mức độ phổ biến muỗi kháng hóa chất cao. Phát triển hóa chất diệt côn trùng mới để thay thế các loại hóa chất muỗi đã kháng là một ưu tiên hàng đầu và các sản phẩm mới sẽ nhiều hứa hẹn trong việc kiểm soát véc tơ. Phát triển hóa chất mới dùng để tẩm màn chống muỗi đốt là một ưu tiên cụ thể nhất.
Việc phát hiện muỗi kháng hóa chất phải là một phần thiết yếu trong tất cả các nỗ lực phòng chống sốt rét ở cấp độ quốc gia, nhằm đảm bảo rằng tất cả các biện pháp kiểm soát véc tơ đang được sử dụng phải đạt hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn hóa chất dùng để phun tồn lưu trong nhà luôn luôn được thông báo gần đây và các dữ liệu về tính nhạy cảm của vức tơ chính ở địa phương .
Để đảm bảo có một phản ứng kịp thời và phối hợp toàn cầu với các mối đe dọa kháng hóa chất diệt côn trùng, TCYTTG đã làm việc với tất cả các bên liên quan để phát triển Kế hoạch toàn cầu cho việc quản lý tình trạng véc tơ kháng hóa chất diệt côn trùng (GPIRM), được xuất bản vào tháng 5 năm 2012. GPIRM đưa ra một chiến lược với năm trụ cột chính kêu gọi toàn cầu về kiểm soát muỗi sốt rét:
-Lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng ở những quốc gia lưu hành sốt rét;
-Tăng cường giám sát tình trạng kháng hóa chất đúng lúc và kịp thời đồng thời quản lý dữ liệu hiệu quả;
-Phát triển các công cụ mới và sáng tạo để kiểm soát véc tơ;
-Tăng cường bổ sung kiến thức về cơ chế kháng hóa chất diệt côn trùng và tác động của các phương pháp quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng hiện tại;
-Đảm bảo các cơ chế cho phép (nguồn nhân lực và tài chính) được đưa ra.
Giám sát sốt rét
Theo dõi và giám sát là một thách thức lớn trong việc kiểm soát bệnh sốt rét. Trong năm 2012, các hệ thống giám sát bệnh sốt rét chỉ phát hiện khoảng 14% số ca mắc ước tính trên phạm vi toàn cầu. Các hệ thống giám sát bệnh sốt rét tốt hơn là rất cần thiết và khẩn trương, cho phép có phản ứng kịp thời và hiệu quả ở các khu vực lưu hành sốt rét, nhằm ngăn chặn sự bùng phát và phục hồi của bệnh. Đồng thời theo dõi sự tiến độ và giúp các quốc gia và cộng đồng thế giới có trách nhiệm hơn với bệnh sốt rét.
Tiến đến loại trừ sốt rét
Loại trừ bệnh sốt rét được định nghĩa là làm gián đoạn lây truyền bệnh sốt rét do muỗi gây ra ở một khu vực địa lý xác định, ví dụ, không có ca bệnh xảy ra tại địa phươn. Tiêu diệt sốt rét được định nghĩa là giảm vĩnh viễn không có tỷ lệ mắc sốt rét trên toàn thế giới gây ra bởi một tác nhân cụ thể, tức là áp dụng cho một loài ký sinh trùng sốt rét đặc biệt.
Trên cơ sở các trường hợp mắc được báo cáo trong năm 2013, thì có 55 quốc gia đang trên đà giảm tỷ lệ mắc sốt rét là 75%, phù hợp với mục tiêu của Đại hội đồ ng Y tế thế giới (WHA)cho năm 2015. Chiến lược loại trừ sốt rét của TCYTTG được đề nghị trên vi mô lớn, những công cụ hiện có, cam kết quốc gia mạnh và những nỗ lực phối hợp với các đối tác, sẽ cho phép các quốc gia đặc biệt là những nơi bệnh sốt rét lan truyền thấp và không ổn định - sự tiến bộ tiến tới xoá bỏ bệnh sốt rét.
Trong những năm gần đây, 4 quốc gia đã được xác nhận bởi Tổng giám đốc TCYTTG là đã loại trừ sốt rét gồm United Arab Emirates (2007), Ma-rốc (2010), Turkmenistan (2010), và Armenia (2011).
Vaccine chống bệnh sốt rét
Hiện tại không có loại vắc xin chống lại bệnh sốt rét hoặc chống lại bất kỳ ký sinh trùng sốt rét ở người. Một nghiên cứu vaccine chống lại ký sinh trùng P. falciparum, được gọi là RTS, S/AS01, là tiên bộ nhất. Vaccine này hiện đang được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng lớn tại 7 quốc gia ở châu Phi và đã được đưa đến Cơ quan y tế châu Âu. TCYTTG đưa ra khuyến cáo việc đưa vaccine vào cộng đồng sẽ phụ thuộc nhiều vào kết quả thử nghiệm cuối cùng từ thử nghiệm lâm sàng trên quy mô lớn và xem xét điều chỉnh tích cực. Đề nghị sử dụng hay không sử dụng loại vaccine này nên được đưa vào như là một trong các công cụ kiểm soát sốt rét hiện nay, dự kiến vào cuối năm 2015.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) với bệnh sốt rét
Chương trình sốt rét toàn cầu (Global Malaria Programme_GMP) của Tổ chức Y tế thế giới chịu trách nhiệm về chuẩn bị và cập nhật hồ sơ bệnh án để kiểm soát và loại trừ sốt rét thông qua:
-Thiết lập, truyền thông và thúc đẩy việc chấp nhận các quy tắc, tiêu chuẩn, chính sách, chiến lược kỹ thuật và các hướng dẫn dựa vào bằng chứng;
-Giữ được những tiến bộ thành công trên toàn cầu;
-Phát triển những cách tiếp cận để xây dựng năng lực, tăng cường hệ thống và giám sát;
-Xác định các thách thức để kiểm soát và loại trừ sốt rét ở những khu vực mới để hành động.
Chương trình sốt rét toàn cầu (GMP) đáp ứng như một ban thư ký cho Ủy ban Tư vấn Chính sách Sốt rét (MPAC), một nhóm gồm 15 chuyên gia sốt rét toàn cầu bổ nhiệm sau một quá trình đề cử mở. MPAC, họp hai lần hàng năm, đưa ra tư vấn độc lập cho TCYTTG để đưa ra các khuyến nghị về chính sách cho việc kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét. Nhiệm vụ của MPAC là đưa ra tư vấn chiến lược, kỹ thuật đầu vào và mở rộng cho tất cả các khía cạnh trong việc kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét, như là một phần của một quá trình thiết lập chính sách minh bạch, đáp ứng và đáng tin cậy.
TCYTTG cũng là người đồng sáng lập và chủ nhà của tổ chức Đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria_RBM), đây là tổ chức hoạt động trên khuôn khổ toàn cầu để thực hiện phối hợp hành động chống lại bệnh sốt rét. Sự hợp tác này huy động cho hành động, các nguồn lực và đưa ra sự đồng thuận giữa các đối tác. Tổ chức này bao gồm hơn 500 đối tác cùng chung tay và các hành động phòng chống sốt rét, bao gồm các quốc gia lưu hành sốt rét, các đối tác phát triển, khu vực tư nhân, phi chính phủ và các tổ chức dựa vào cộng đồng, các quỹ tài trợ và tổ chức nghiên cứu và học tập.