Trong hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt rét Bộ Y tế ban hành năm 2003, thuốc Artesunate tiêm chưa được chỉ định đưa về sử dụng tại xã, phường, thị trấn. Hướng dẫn bổ sung năm 2007 và năm 2009, loại thuốc này đã được chỉ định dùng ở cơ sở tuyến đầu để chủ động khống chế sốt rét nặng và ác tính, hạ tỷ lệ tử vong.
Đặc điểm của thuốc Artesunate tiêm
Artesunate có hoạt chất là Dihydro-artemisinine-12a-succinate được sản xuất dưới nhiều tên thương hiệu khác nhau như Qinghaoshuzhi (Trung Quốc), Roteria (Canana), Arinate (của hãng Traphaco) ... Artesunate là muối natri của ester hemisuccinate của artemisinine. Artesunate tan trong nước nhưng độ ổn định kém khi ở môi trường nước, có độ pH trung tính hay acide. Artesunate có thể dùng theo đường uống, đường trực tràng hoặc theo đường tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch. Hiện nay, đã có dạng viên thuốc kết hợp Dihydro-artemisinine với Piperaquine dưới các tên thương hiệu như Arterakine, CV Artecan, Artekin... Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thuốc Artesunate đơn thuần không nên sử dụng mà nên sử dụng liệu pháp phối hợp thuốc điều trị có Artemisinine gọi là ACT (Artemisinine base combination therapy); không dùng Artesunate đơn thuần để hạn chế tình trạng kháng thuốc sớm của ký sinh trùng sốt rét. Riêng loại thuốc tiêm, chưa sản xuất được thuốc dạng phối hợp mà chỉ có Artesunate đơn thuần.
 |
Thuốc Artesunate tiêm hiện nay ở Việt Nam thường dùng |
Khi dùng Artesunate ở dạng tiêm, acide artesunic kết hợp với natri bicarbonate tạo thành natri artesunate ngay trước khi tiêm. Thuốc Artesunate tiêm hiện nay đã được Việt Nam sản xuất thành công để góp phần giải quyết sốt rét nặng và sốt rét ác tính có hiệu quả, hạ thấp được tỷ lệ tử vong. Thuốc sản xuất được đóng hộp gồm 1 lọ thuốc bột Artesunate 60mg kèm theo 1 ống 1ml dung dịch 5% Natri bicarbonate (NaCO3H); 10 hộp thuốc được đóng vào trong 1 hộp lớn.
Liều lượng sử dụng thuốc
Dùng ống dung môi 1ml Natri bicarbonate 5% pha vào lọ thuốc bột, lắc kỹ trong thời gian 5 phút để bột Artesunate tan hoàn toàn, dung dịch trong suốt. Sau đó mới pha loãng thêm bằng 5ml dung dịch Natri chlorure 9‰ vào lọ để bảo đảm được nồng độ mỗi 1ml dung dịch thuốc phải có 10mg Artesunate. Việc pha thêm 5ml Natri chlorure 9‰ là để chia liều lượng chính xác cho bệnh nhân là trẻ em. Khi pha dung môi 1ml Natri bicarbonate 5% vào lọ thuốc bột Artesunate, nếu thấy thuốc không tan hoàn toàn hoặc bị vẩn đục, phải loại bỏ lọ thuốc này và nên sử dụng một lọ thuốc khác.
Cách pha thuốc như trên được dùng trong trong các trường hợp tiêm tĩnh mạch. Nếu vì điều kiện của bệnh nhân và các cơ sở y tế tuyến đầu không tiêm được tĩnh mạch thì có thể tiêm bắp thịt. Trong trường hợp tiêm bắp thịt, nếu bệnh nhân là người lớn dùng hết liều 1 lọ 60mg 1 lần thì chỉ cần pha lọ thuốc bột với 1ml Natri bicarbonate 5%, lắc kỹ cho bột Artesunate tan hoàn hoàn, dung dịch trong suốt rồi tiêm bắp thịt.
Theo hướng dẫn điều trị cũ của Bộ Y tế ban hành năm 2007, liều giờ đầu dùng 2,4mg/kg cân nặng, 24 giờ sau tiêm nhắc lại 1,2mg/kg; sau đó mỗi ngày tiêm 1 liều 1,2mg/kg cho đến khi bệnh nhân tỉnh, có thể uống được, chuyển sang thuốc Artesunate 50mg uống cho đủ liều 7 ngày. Trong hướng dẫn mới được ban hành vào năm 2009, liều giờ đầu không có gì thay đổi, vẫn dùng 2,4mg/kg cân nặng; bổ sung thêm liều vào giờ thứ 12 với 1,2mg/kg. Sau đó từ ngày thứ 2 trở đi dùng 1,2mg/kg cho đến khi bệnh nhân tỉnh, có thể uống được thì chuyển sang dùng thuốc uống Dihydroartemisinine-Piperaquine như Arterakine, CV Artecan hoặc Artekin ... cho đủ liều quy định. Thuốc viên Artesunate 50mg đơn thuần không còn được chỉ định sử dụng trong hướng dẫn mới này.
 |
Bệnh nhân sốt rét được đưa đến trạm y tế xã khám và điều trị |
Thực trạng tồn tại ở các cơ sở
Qua khảo sát thực tế ở một số các cơ sở điều trị, mặc dù y lệnh của bác sĩ đã chỉ định sử dụng thuốc Artesunate tiêm cho các bệnh nhân sốt rét nặng và ác tính đã ghi cụ thể trong bệnh án. Tuy vậy về kỹ năng thực hành, y tá thực hiện y lệnh chưa chú ý thật kỹ về cách pha thuốc nên đã làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Có một số trường hợp do tình trạng khẩn cấp của bệnh nhân hoặc chưa nắm rõ quy trình kỹ thuật đơn giản, y tá vội vàng pha ống dung môi Natri bicarbonate 5% vào lọ thuốc bột Artesunate 60mg; mặc dù bột chưa tan hết hoàn toàn theo quy định đã thêm ngay vào 5ml dung dịch Natri chlorure 9‰ và lấy thuốc tiêm ngay cho bệnh nhân. Nếu thực hiện không đúng quy trình kỹ thuật đơn giản này, mỗi ống thuốc Artesunate được sử dụng tiêm sẽ đưa vào cơ thể bệnh nhân không đủ 60mg hoạt chất mà sẽ thấp hơn và lẽ dĩ nhiên sự đáp ứng điều trị bị hạn chế. Đây là một kỹ thuật đơn giản nhưng bác sĩ khi ra y lệnh điều trị, cần hướng dẫn cho y tá thực hiện một cách cẩn thận, chu đáo mới mong đem lại hiệu quả tốt.
Mặc dù thuốc Artesunate tiêm đã được Bộ Y tế cho phép tuyến trên cung cấp về cho tuyến đầu xã, phường, thị trấn sử dụng để can thiệp những trường hợp sốt rét nặng và ác tính nhằm góp phần hạ tỷ lệ tử vong. Tuy vậy, các cơ sở y tế cũng cần chú ý không nên lạm dụng việc sử dụng thuốc một cách tùy tiện mà phải tuân theo quy định của hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế đã ban hành. Cần nhớ rằng, sốt rét ác tính chỉ được chỉ định điều trị tại tuyến từ bệnh viện huyện trở lên. Y tế xã, phường, thị trấn, thôn bản, các cơ sở hành nghề y tế tư nhân không được điều trị sốt rét ác tính; khi gặp các trường hợp bệnh nhân có dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính hoặc sốt rét ác tính đã xảy ra, chỉ được xử trí ban đầu và tìm cách chuyển người bệnh lên tuyến trên. Thuốc Artesunate tiêm được cung cấp về tận tuyến xã, phường, thị trấn với mục đích trang bị thêm vũ khí chiến đấu để tuyến đầu có điều kiện xử trí ban đầu có hiệu quả các trường hợp sốt rét nặng, có dấu hiệu dự báo ác tính và sốt rét ác tính trước khi chuyển lên tuyến trên. Khẩu hiệu “Không có sốt rét ác tính, không có tử vong” cũng cần được phổ cập cho tuyến cơ sở phấn đấu thực hiện. Thực tế hiện nay một số trạm y tế xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao và biên giới được cung cấp chủng loại thuốc Artesunate tiêm đã góp phần xử trí các trường hợp sốt rét nặng, có dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính và sốt rét ác tính có hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu giảm tử vong hoặc không để tử vong do sốt rét.