Một câu hỏi đặt ra rất thú vị do tác giả tiến sĩ Geoff Birrell từ Viện Sốt rét quân đội Úc (Australia Army Malaria Institute, Gallipoli Barracks Enoggera, Bldg K10, Lloyd Street, Enoggera, Brisbane, Queensland 4051, Australia) cho biết một bài báo gần đây (K van Acker, J Plaizier, Malaria Journal, 2012-11 Suppl.1) xác định mối quan tâm đang gia tăng bởi các ấn bản trước đây “tính ổn định của các dẫn suất artemisinin lâu nay chỉ được điều tra và đánh giá một phần nào đó và chưa rõ ràng có bao nhiêu sự góp phần này đến các báo cáo về thuốc giả và thuốc kém chất lượng”.
Một trong những kết luận của nghiên cứu này rằng “Artesunate và amodiaquine chỉ có thể sử dụng trong dạng thuốc phối hợp nếu chúng bị tách ra”.
Artesunate và Amodiaquine quả thật không tương hợp, khi sự có mặt của mỗi thuốc. Artesunate thì rất nhạy với độ acid mang bởi các phân tử HCl có mặt trong amodiaquine, tác động ảnh hưởng mà nó làm tăng lên bởi nhiệt độ và độ ẩm. Sự tưng kỵ về mặt hóa học của hai thuốc gây ra sự phân hủy lẫn nhau và dẫn đến vấn đề ổn định của thuốc. Các cố gắng phối hợp các thành phần hoạt chất chính không tương hợp trong khi ngăn ngừa sự giáng hóa của artesunate dưới điều kiện khí hậu nhiệt đới là rất khó khăn. Nó đòi hỏi 3 năm để phát triển bởi WHO và DNDi. Một số lựa chọn thất bại: artesunate kết hợp chặt chẽ trong pha ngoại của thuốc viên, bổ sung thêm một chất điều hòa độ pH, các bột ẩm alcoholic, các hạt khô, bổ sung các thành phần kỵ nước. Cuối cùng tính ổn định có thể đạt được trong các gói thực nghiệm bởi phân tách artesunate và amodiaquine trong một cong thức hai lớp ( C Lacaze et al., Malaria Journal, 2011, 10:142)
Vào năm 2007, một bài báo ấn bản có phối hợp bởi Université Paris Descartes và WHO Geneva tìm thấy thời gian “shelf life” của Artesunate là 24 tuần chỉ khi giữ chúng ở 4°C, trong 12 tuần ở 25°C và ít hợn một tuần nếu ở nhiệt độ 37°C. Khâu đóng gói không ảnh hưởng lên shelf life (S Houzé et al., J Clin Microbiol. Aug 2007, 2734-2736.) Năm 1996 một sự tái phát sớm (recrudescence) cao sau khi tiêm tĩnh mạch có liên quan đến thời gian bán hủy ngắn của artesunate. Artesunate pha trong dung dịch sodium chloride để tiêm thì ổn định chỉ trong 4 giờ nếu ở nhiệt độ 30°C ( KT Batty và cs., J Pharm Pharmacol 1996, 48-1, 22-26).
Trong một nghiên cứu tương tự liên quan Đại học Hongkong và WHO (RK Haynes, MG Gomes et al., ChemMedChem 2007. 2, 1448-1463), các tác giả kết luận rằng tính dễ hủy bởi nhiệt (thermal lability) trên lâm sàng sử dụng artemisinins không tương thích với yêu cầu ICH/WHO đối với các thuốc tạo lập công thức hướng đến cho sử dụng trong các vùng thời tiết như các quốc gia vùng III và IV. Và những công thức liều cố định cực kỳ quan trọng mà số lượng artimisinin hoạt chất không giảm dưới liều điều trị có hiệu lưc đã thiết kế trước khi chúng hết hạn sử dụng.
Một nghiên cứu tiến hành tại Ghana (K Ofori-Kwakye et al., Trop J Pharmac Res. 2008, 7:4 1179-1184) trên 17 viên artesunate mua được từ các công ty dược cho thấy có một hàm lượng artesunate đặc hiệu thấp hơn. Chỉ có 3 trong số các mẫu thuốc hội đủ nhu cầu về hàm lượng theo Dược điển châu Âu (European Pharmacopoeia). Không có viên thuốc nào tìm thấy là thuốc giả.
Một nghiên cứu tương tự từ Nigeria cho thấy trên 13 nhãn hiệu thuốc generic của thuốc viên artesunate là 66.7% không đạt về nồng độ qua thử nghiệm (O Odunfa et al., Trop J Pharmac Res, 2009, 8:6, 491-499).
Trong một nghiên cứu khác về amodiaquine và artesunate viên, chỉ có 15.4% mẫu thuốc chứa cả amodiaquine và artesunate theo đặc điểm kỹ thuật tiêu chí của USP. 53,8 % không đạt hàm lượng hoạt chất trên cả amodiaquine và artesunate (T Ehianeta et al., African J of Pharmacy and Pharmacology, 6-9, 2012, 636-642).
Một bài báo khác gần đây cung trên tạp chí Malaria Journal (S Suleman, et al. Malaria J. 2013, 212:145) mô tả một vấn đề tương tự về tính ổn định của thuốc phối hợp artemether-lumefantrine, chỉ ra chúng vốn dĩ đã có không ổn định và đòi hỏi phải kiểm soát khâu phân phối và điều kiện bảo quản, điều này không phải luôn luôn sẵn có tại những cơ sở y tế hạn chế vè nguồn lực.
Đôi khi thuốc ACTs được so sánh, WHO nhận ra vấn đề bất ổn định trong các tài liệu mua bán thuốc Artemether-Lumefantrine(Coartem®) thông qua WHO. “Gói thuốc trên thị trường có liệu trình 3 ngày với 16 hay 24 viên trong các vỉ riêng biệt. Sau khi các viên thuốc này bị loại bỏ các các vỉ đơn thuần, chúng sẽ bắt đầu bị phá hủy trong 24 giờ”. Tính ổn định là một trong các lý do các nhà sản xuất khuyên cáo cho Coartem không nên giữ ở nhiệt độ > 30°C (Andrea Bosman WHO-RBM). Trong một tài liệu ấn bản vào năm 2011 (ISBN 9789241500838) WHO xác định việc sử dụng rộng rãi các liệu trình thuốc sốt rét dưới liều điều trị khác có thể dẫn đến hay đóng một vai tò quan trọng trong sự phát triển kháng thuốc.