Gan nhiễm mỡ và thái độ xử trí (Le foie lipoide et Conduit à tenir)
Gan nhiễm mỡ là một hiện tượng bệnh lý do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, là hậu quả của nhiều bệnh và đến một lúc nào đó sẽ thành một bệnh thật sự, có thể dẫn đến xơ gan, suy gan và ung thư gan. Về nguyên nhân, bệnh có thể do: uống rượu quá nhiều, béo phì, rối loạn lipid máu, đái tháo đường không phụ thuộc insuline, chế độ dinh dưỡng bằng đường tĩnh mạch toàn phần; suy dinh dưỡng dạng Kwashiorkor, do lạm dụng thuốc corticoides,methvotrexude, amidarone, gan nhiễm mỡ cấp tính trên sản phụ (Contemporarily lipoid liver in pregnancy), ngộ độc thuốc, gan nhiễm mỡ vì thiếu dinh dưỡng (Malnutrition related lipoid liver). Gan nhiễm mỡ là tình trạng tích tụ mỡ trong tế bào gan, không nhất thiết phải những người béo phì mới bị gan nhiễm mỡ; gan nhiễm mỡ cũng hay gặp ở những người ăn chay trường, ăn uống đạm bạc, suy dinh dưỡng lâu ngày, thiếu các vitamin và proteine để tạo thành các chất chuyển hóa cần thiết để đưa chất mỡ ra khỏi gan. Hai nhóm gan nhiễm mỡ được chia ra: gan nhiễm mỡ do sử dụng quá nhiều bia rượu và gan nhiễm mỡ không do bia rượu. Sự mất cân bằng về lượng chất béo trong gan có thể gây bệnh gan nhiễm mỡ làm trầm trọng thêm tình trạng suy gan. Nghiên cứu trên chuột cho thấy tỷ lệ mất cân đối giữa hai thành phần phospholipide của màng tế bào đã làm suy yếu sự toàn vẹn của màng tế bào và đóng vai trò gây bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (Non alholic steatohepatitis-NASH). Nhà hóa học Dennis Vance thuộc trường Đại học Alberta (Canada) cho biết khi tỷ lệ này bị thay đổi sẽ dẫn đến rò rỉ enzyme và các chất khác vào dòng máu. Kết quả này gợi ý rằng chế độ ăn hoặc những can thiệp khác giúp duy trì tỷ lệ hợp lý có thể cung cấp biện pháp mới điều trị NASH. NGUYÊN NHÂN GAN NHIỄM MỠGan nhiễm mỡ gây ra từ rượu bia Tất cả đối tượng uống hơn 60g chất cồn mỗi ngày, kể cả trong một thoèi gian ngắn đều có nguy cơ gan nhiễm mỡ. Tại Mỹ, khoảng 15 triệu ngườu đang nghiện rượu và hậu quả dẫn đến gan nhiễm mỡ là khó tránh khỏi. May mắn thay, gan nhiễm mỡ hiếm khi đua đến tử vong và dường như trở về bình thường nếu người đó ngưng sử dụng rượu. | Tiến triển xơ gan do rượu. |
Gan nhiễm mỡ không do bia rượu Gan nhiẽm mỡ có thể là triệu chứng đầu tiên của bệnh tiểu đường hoặc khi chúng ta ăn quá nhiều so với mức tiêu thụ năng lượng, thì năng lượng thặng dư sẽ tích lại dưới dạng mỡ, mỡ ứ đọng lại khắp các cơ quan trong cơ thể (bụng, hông, cằm, cổ) và cả gan, chính những hạt mỡ ẩn nấp bên trong cơ thể mới thật sự nguy hiểm, nên vì thế một số bệnh nhân tuy gầy nhưng vẫn bị gan nhiễm mỡ, nhất là khi họ bị tiểu đường hoặc ăn quá nhiều mỡ. Triệu chứng tổng quát khi bị gan nhiễm mỡ Trong khá nhiều trường hợp bị bệnh gan nhiễm mỡ vẫn không thấy các triệu chứng của bệnh, vì thế không được chẩn đoán bệnh sớm. Tuy vậy, theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn: 33,33% (1/3) số người bệnh nhân gan nhiễm mỡ có triệu chứng sau: gan to, khó chịu ở vùng HSP, buồn nôn, nôn, ăn uống lâu tiêu, triệu chứng ậm ạch khó chịu. Khi gan bị nhiễm mỡ, bản thân người bệnh cảm thấy mệt, đầy bụng thường xuyên xảy ra, khó tiêu, ăn uống kém, rối loạn tiêu hóa và khó đại tiện, có thể buồn nôn, đau tức hạ sườn phải, run chân tay, khám thấy gan to chắc. Gan nhiễm mỡ đa số là mạn tính, biểu hiện lâm sàngvà mức độ gan huiễm mỡcó liên quan chặt chẽ. Nếu bệnh nhân có tiền sử nghiện rượu kèm theo (viêm gan do rượu), kết quả xét nghiệm có men gan tăng, trong đó AST tăng cao hơn ALT, GGT tăng cao, một số bệnh nhân biểu hiện thiếu vitamin, gây viêm đầu dây thần kinh, viêm mép, môi, chấm bầm ở da, sừng hóa da, tóc móng. Gan nhiễm mỡ tạm thời khi phụ nữ mang thai Thường xảy ra vào 3 tháng cuối của thai kỳ, sinh thiết gan cho thấy hình ảnh gan nhiễm mỡ cả về vi thể lẫn đại thể. Sau khi sinh con các triệu chứng thường biến mất. Đôi khi bệnh gan tiếp tục tiến triển đến mức cần phải ghép gan, may thay thì biến chứng như vậy rát hiếm gặp. Bệnh gan nhiễm mỡ cấp cũng có những thể nhẹ. Nếu phát hiện sớm, có thể tỷ lệ sống cho mẹ hơn 90% và cho thai nhi hơn 60%. Trong thực tế cũng có nhưng thể gan nhiễm mỡ cấp khi có thai mà không thể hiện triệu chứng gì. Thế bệnh này có thể xem như một trong các thể bệnh xảy ra khi có thai và những bệnh này thường phối hợp với biến chứng tiền sản giật, sản giật và nguyên nhân sinh bệnh còn chưa rõ. Về triệu chứng thì bệnh nhân nhức đầu, buồn nôn, chán ăn, đau bụng, khi bị suy gan có biểu hiện vàng da và bệnh lý não, xét nghiệm men transaminase tăng nhưng sắc tố mật tăng ít, những thể nặng thường gây chết thai. Cũng cần chú ý trong thời kỳ mang thai, không những gan nhiễm mỡ mà một số bệnh khác cũng có, nên việc chẩn đoán phân biệt là cần thiết: ứ mật trong khi có thai (là loại bệnh lành tính, thường đi kèm suy thai, đẻ non, thai chết lưu; triệu chứng chủ yếu là ngứa, men gan cao hơn bình thường từ 2-10 lần, không nôn, không đau bụng, đông máu rải rác trong lòng mạch, suy thận, thay đổi tâm sinh lý, mọi triệu chứng và xét nghiệm thay đổi và trở về bình thường sau sinh xong); Hội chứng HELLP (Hemolysis, Elevated Liver enzyme and Low Platelet) là một trạng thái bệnh lý nghiêm trọng khi có thai, phát triển nhanh thường ở 3 tháng cuối của thai nghén những cũng có thể xảy ra ngay sau sinh, đặc trưng bởi ba dấu hiệu sau đây: tán huyết, tăng men gan và giảm số lượng tiểu cầu, phụ nữ bị hội chứng này dễ có chảy máu, ảnh hướng xấu đến mẹ và thai nhi; Chảy máu quanh hệ thống tĩnh mạch cửa, chảy máu gan, u gan hay vở gan tự nhiên, nhiễm virus herpes rải rác trong gan, sỏi túi mật do cholesterol, ... Gan nhiễm mỡ vì thiếu dinh dưỡng Trên thực tế, dinh dưỡng không tốt cũng có thể dẫn đến gan nhiễm mỡ, sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng làm giảm quá trình chuyển hoá chất béo trong gan hoặc làm giảm chức năng của acide béo, gây ra sự lắng đọng của mỡ và acide béo trong gan dẫn đến tình trạng gan nhiễm mỡ. Nếu trong cơ thể nếu lượng đường thấp, protein thấp, hấp thu dinh dưỡng không đủ, hay dinh dưiỡng cung cấp không đều có thể dẫn đến gan nhiễm mỡ, cơ chế phát sinh là: Cơ thể trong tình trạng đói dài ngày thường gặp ở người ăn kiêng quá mức, sẽ dẫn đến lượng đường trong máu quá thấp, chức năng kích thích hấp thu của hệ thần kinh giao cảm tăng, phân giải mỡ thành năng lượng cung cấp cho cơ thể. Khi phân giải mỡ lượng acide béo đi vào trong máu tăng, dẫn đến tích trữ mỡ trong gan. Cơ thể thiếu proteine trong thời gian dài sẽ làm trở ngại việc hình thành Apoproteine, mỡ trong máu không thể chuyển hoá kịp thời, dẫn đến tăng mỡ trong máu là điều kiện quan trọng hình thành gan nhiễm mỡ. Thiếu dinh dưỡng không chỉ làm thiếu hụt hàm lượng acide amin của protein mà còn thiếu các chất dinh dưỡng khác như các loại vitamin, khoáng chất, muối vô cơ. Chính sự thiếu hụt này làm cản trở quá trình chuyển hoá chất béo, gây nên tiến trình hình thành gan nhiễm mỡ. Khi cung cấp chất dinh dưỡng không đều sẽ làm thiếu hụt hàm lượng acide amin của protein vận chuyển mỡ. Khi proteine vận chuyển mỡ giảm, sẽ không thể kịp thời di chuyển tricglyceride trong tế bào gan gia tăng, dẫn đến gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ trên những người tu hành Do thức ăn chay thường có nhiều chất bột đường, hơn nữa bữa ăn thiếu chất dinh dưỡng nên bệnh nhân thường rất mau đói, vì thế nên phải ăn số lượng nhiều hơn, các chất này được chuyển đến gan, một phần được dự trữ dưới dạng glycogen (đây là hoạt động tích cực: khi cơ thể hoạt động nhiều, các glycogen được biến đổi thành glucose, chuyển trở vào máu đến các tế bào. Tại tế bào, glucose đi vào chu trình cung cấp năng lượng cho các hoạt động). Phần bột đường còn dư thừa sẽ biến thành chất mỡ, phần dư thừa càng nhiều thì tổng hợp chất mỡ càng lớn, gây ra gan nhiễm mỡ; đồng thời lại thiếu chất chuyên chở mỡ ra khỏi gan nên tình trạng gan nhiễm mỡ càng tăng. Gan nhiễm mỡ trên các người nghiện rượu Theo kết quả nghiên cứu “Đánh giá tình hình lạm dụng rượu bia tại Việt Nam” vừa được Viện Chiến lược và chính sách y tế công bồ: tình hình sản xuất lưu thông thông và tiêu dùng bia rượu ở Việt Nam liên tục gia tăng. Tỷ lệ sử dụng rượu, bia (ít nhất 1 lần/tuần) tại các địa phương nghiên cứu là 33,5%, trong khi đó tỷ lệ lạm dụng rượu là 18%, lạm dụng bia là 5%. Có 95,7% số người sử dụng rượu nấu thủ công để uống, đây là loại rượu có nhiều tiêu chuẩn độc tố cao hơn mức cho phép nhiều lần như độc tố aldehyl acetic trong rượu nấu thủ công là 235mg/L trong khi tiêu chuẩn rượu của Nga là nhỏ hơn hoặc bằng 4mg/L. Mặc dù cách chế biến có khác nhau, songbản chất chung của rượu và các nước giải khát có cồn là có chứa ethanol, với công thức hóa học là C2H5OH. Rượu nguyên chất hoặc có nồng độ cồn cao thường được dùng trong công nghiệp, trong các phòng thí nghiệm, các cơ sở khám chữa bệnh . Đồ uống có cồn thường được sử dụng với loại có nồng độ cồn dưới 50%. Khi vào cơ thể, rượu sẽ chuyển hóa ở gan thành acetaldehyde dưới tác động của men alcohol dehydrogenase và sau đó thành acide acetic dưới tác dụng của men acetaldehyde dehydrogenase (cần chú ý người châu Á thường thiếu các men này nên chuyển hóa rượu rất chậm so với người phương Tây và dễ ngộ độc hơn). Trong rượu còn có chứa các tạp chất khác nhau, điển hình là methanol (CH3OH). Methanol rất độc đối với cơ thể, khi được chuyển hóa ở gan, methanol sẽ tạo thành những hợp chất còn độc hơn, đó là acide formic và formaldehyd gây mù do tổn thương dây thần kinh thị giác và nhiễm độc tồn lưu dần trong hệ thần kinh trung ương. Gan có vai trò quan trọng trong khử độc cho cơ thể, nếu liên tục chuyển hóa rượu thì gan dễ thoái hóa mỡ và suy chức năng gan nhanh chóng. Khởi đầu, mỡ sẽ tích lũy trong tế bào gan, nếu dừng uống rượu, tế bào gan sẽ dần phục hồi trở lại, tuy nhiên nếu uống nhiều và lâu dài thì tổn thương gan lan rộng, suy thoái, xơ hóa và xơ gan; gan có khả năng hoạt động bù trừ rất tốt, nên khi có biểu hiện lâm sàng thì các triệu chứng biểu hiện đã là quá muộn và khi đó bệnh vào giai đoạn suy tế bào gan không hồi phục, và lẽ đương nhiên không loại trù tình trạng gan nhiễm mỡ nặng hơn. Ngoài tác động của rượu bia lên tế bào gan, rượu còn tác động lên cơ quan tim mạch, dạ dày ruột, đại tràng, gia tăng nguy cơ bệnh tiểu đường, tim mạch và ung thư phủ tạng. Gan nhiễm mỡ trên các đối tượng đặc biệt Các người nghiện rượu, đái tháo đường type 2, bệnh lao, bệnh Wilson’s, viêm gan siêu vi mạn tính hoặc bệnh lý đặc biệt cần phải dùng thuốc corticoides kéo dài, tetracycline, estrogen liều cao cung gây nên tình trạng gan nhiễm mỡ. CHẨN ĐOÁN Nếu gan nhiễm mỡ có viêm gan thì chỉ số men gan SGOT và SGPT tăng. Nừu bệnh gan nhiễm mỡ không viêm gan thì cả hai chỉ số này bình thường. Về các xét nghiệm đo lượng mỡ trong máu: nếu có rối loạn mỡ trong máu (tỷ lệ LDL và HDL trong cholesterol thay đổi theo hướng xấu) việc này không liên quan đến gan nhiễm mỡ; chỉ việc tăng triglycerides moiứ là yếu tố nguy cơ gây ra gan nhiễm mỡ rất cao. Nếu chỉ dựa vào lâm sàng thì chưa chắc để chẩn đoán bệnh gan nhiễm mỡ thai nghén mà phải có sự hỗ trợ xét nghiệm, siêu âm để đánh giá và theo dõi hồi phục của bệnh sau khi sinh, các phương pháp hiện đại và cao cấp như MRI hoặc CT-Scan giúp chẩn đoán bệnh chính xác hơn. Sinh thiết gan là phương pháp chẩn đoán chính xác và có giá trị khoa học nhất, dưới kính hiển vi, tế bào gan của người bị gan nhiễm mỡ sẽ không còn xếp hàng mà bị thổi phồng như những chiếc bong bóng chứa đầy các hạt mỡ. Trên siêu âm có gan to thoái hóa mỡ, tuy nhiên có một só người khi mắc bệnh chưa có triệu chứng gì mà vô tình khám tháy gan to chắc. Đối với gan nhiễm mỡ, đặc biệt do rượu, nếu phát hiện sớm cần thiết bỏ rượu và điều trị kịp thời sẽ mang lại hiệu quả tốt, gan có thể hồi phục, song người nghiện rượu thường dễ tái nghiện, nếu tiếp tục uống sẽ dẫn đến xơ gan và ung thư gan. Đối với người bệnh gan thoái hóa mỡ, ngoài bệnh gan còn bị các bệnh lý khác như nhồi máu cơ tim, xơ vữa động mạch, đái tháo đường và tăng huyết áp. Chính xác nhất là sinh thiết gan (liver biopsy), khi đó xem có tế bào gan nhiễm mỡ hay không, gan có bị viêm, bị xơ hóa không hay có có các bất thường khác. ĐIỀU TRỊ Theo Viện nghiên cứu bệnh tiểu đường, tiêu hóa và thận Quốc gia Mỹ, khoảng 2-5% người Mỹ bị NASH và 10-20% người bị lắng đọng mỡ bất thường trong gan. Sự gia tăng số trẻ em và người trưởng thành quá cân đã dẫn đến số lượng người lớn bị bệnh gan và tiến triển gan nhiễm mỡ. Hiện nay, Viện này vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cho các bệnh nhân này. Các nhà khoa học cho rằng kết quả nghiên cứu đã mở ra hướng mới để nghiên cứu và triển khai trị liệu phòng chống suy gan. Gan nhiễm mỡ không nhất thiết lúc nào cũng cần đến điều trị mà phải xem xét đến các tổn thương khác đi kèm nếu có (viêm gan, xơ gan) và chú ý trên cơ địa người đặc biệt (béo phì, nghiện rượu). Việc điều trị phải tùy thuộc vào nguyên nhân: Điều trị gan nhiễm mỡ do suy dưỡng, do ăn quá nhiều chất bột đường Khi xác định được nguyên nhân gan nhiễm mỡ do thiếu dinh dưỡng, tăng tiêu thụ bột và đường, bác sĩ sẽ căn cứ vào mức độ nhẹ, trung bình và nặng để có chế độ điều trị phù hợp. Đối với gan nhiễm mỡ do thiếu dinh dưỡng ở mức độ nhẹ và vừa thường chọn cách điều trị bằng ăn uống, đồng thời điều trị bằng thuốc tiêm vào tĩnh mạch. Điều trị bằng ăn uống nên dùng nguyên tắc hấp thu nhiều năng lượng, protein, vitamin và cellulose. Do thiếu dinh dưỡng trong thời gian dài, dẫn đến chức năng của hệ tiêu hóa giảm nên khi bổ sung dinh dưỡng từ thực phẩm phải tùy theo khả năng hấp thu của cơ thể. Khi cần thiết có thể bổ sung men tiêu hóa, khi bổ sung nhiều protein nên chú ý chất lượng của proteine, như có thể nhiều thịt cá, thịt bò, thịt bò, thịt dê và các loại trứng. Điều trị bằng ăn uống nên tránh hấp thu quá nhiều mỡ, chỉ bổ sung lượng cần thiết trong cơ thể. Những người thiếu dinh dưỡng mức độ nặng, khả năng hấp thu và chức năng tiêu hóa kém, trước tiên phải ăn ít các chất có chứa nhiều mỡ, sau khi chức năng tiêu hóa trở lại bình thường thì mới bổ sung các chất giàu dinh dưỡng. Ngoài ra, căn cứ vào bệnh tình, có thể điều trị bằng những thành phần dinh dưỡng như truyền tĩnh mạch acide amin, vitamin. Thông thường với chế độ ăn chay, sẽ thiếu các vitamin, nhất là vitamin B12 (vì thuộc chất đạm động vật), thiếu vitamin D (trong sữa), thiếu các acide amin như lysin, threonin, tryptophan, methionin (có trong thịt cá và đạm động vật), thiếu chất sắt vì trong ngũ cốc nguyên hạt có nhiều acide tannic là chất ngăn cản hấp thu sắt, thiếu kẽm (vì kẽm trong thức ăn thực vật bị giảm do acide phytic, oxalat, chất xơ và đạm đậu nành), thiếu iode (vì đa số món ăn chay đều lấy vị mặn từ tương, nhưng nhà sản xuất không lấy muối iode để chế biến). Tuy nhiên, các chất cần thiết này có thể bổ sung bằng chế độ ăn có trứng gà, sữa, sữa chua, phô mai, rong biển. Tăng cường các loại rau xanh lục đậm, quả cây tươi (cải bó xôi, cải xanh, bông cải xanh, cải thìa) quả cà chua, cam, quýt, bưởi, xa ri, dưa hấu để tăng năng lượng vitamin C giúp hấp thu sắt. Tăng cường đạm thực vật (có trong các loại đậu xanh, nành, đen, đậu que, đậu rồng,… Điều trị gan nhiễm mỡ ở người béo phì Chế độ ăn tiết thực là hàng đầu, giảm tổng số năng lượng cho mỗi ngày, thức ăn ít chất béo, ít chất bột, đường, đủ nhu cầu chất đạm và bổ sung rau quả tươi. Tập thể dục thường xuyên để chỉ số khối trở về mức bình thường (đi bộ và bơi lội là phù hợp nhất của người béo phì), không tập tạ hay chạy bộ vì sẽ gây thoái hóa khớp nếu chưa giảm cân triệt để. Việc ăn kiêng và tập luyện đều phải thực hiện kiên trì và bền bỉ, không nên quá cứng nhắc và thay đổi đột ngột. Việc ăn kiêng nên bắt đầu bằng thức ăn hàng ngày của bệnh nhân, giảm dần các chất béo (gà rán, thịt heo luộc, khoai tây rán và bánh hamburger), các thức ăn nhiều năng lượng, thay bằng các loại rau, canh chua, rau luộc. Điều trị gan nhiễm mỡ ở người nghiện rượu Đây là bệnh có thể hồi phục hoàn toàn dựa vào ý chí người bệnh, có thể hỗ trợ viên đa sinh tố và acide folic vì người nghiện ruợu thường xuyên thiếu các chất này. Khi cai rượu, tế bào gan sẽ tự phục hồi, diễn tiến quá trình viêm hoặc xơ gan có thể tạm dừng lại hoặc giảm đáng kể. Điều trị cho người bị tiểu đường, lao và đang dùng thuốc Cần thiết phải điều trị ổn định song song bệnh lý có sẵn trên bệnh nhân và chế độ ăn uống hợp lý; ngừng ngay các thuốc đang sử dụng có tác dụng góp phần gây béo phì là corticoides và estrogen,… Trứơc khi khoa học tiến bộ mang lại phương pháp điều trị hiệu quả, bệnh nhân nên năng đi bộ, tập thể dục đưa cân nặng trở về mức hợp lý nhất. Về thuốc chỉ dùng các chất hạ lipd máu đi cùng các thuốc bệnh tim mạch khác, viên tỏi,… Giới thiệu vài nét về viên tỏi: hàng trăm y văn thế giớichứng minh tỏi có tính kháng sinh voiứ phổ kháng khuẩn rộng, diệt được rất nhiều loại vi khuẩn; nhiểu hoạt chất trong tỏi như ajoene và các hợp chất có lưu huỳnh alinin, allicine,…được chứng minh là có tác dụng phòng và điều trị bệnh tim mạch, cao huyết áp và xơ vữa động mạch, ngăn ngừa ung thư. Một nghiên cứu gần đây nhất đã chứng minh tỏi có những hoạt chất có tác dụng dược lực thuận lợi cho sức khỏe như hạ LDL-Cholesterol, chống oxy hóa, ngăn kết cụm tiểu cầu. Tỏi còn dùng để kích thích hệ miễn dịch, kích thích các đại thực bào, ngăn hình thành gốc tự do làm oxy hóa các cơ cấu di truyền DNA dẫn đến sự lão hóa, kết tinh của tỏi là ajoene có khả năng làm giảm nguy cơ tự hủy của các bạch cầu trong hệ miễn dịch, có khả năng ức chế các tế bào ung thư vú và ung thư trực tràng. TIÊN LƯỢNG Gan nhiễm mỡ đa số là mạn tính, biểu hiện lâm sàng và mức độ gan nhiễm mỡ có quan hệ mật thiết với nhau. Gan nhiễm mỡ ở mức độ nhẹ có thể không có triệu chứng lâm sàng. mức độ vừa hay nặng có những biểu hiện như: chán ăn, nôn, buồn nôn, chướng bụng, một số người còn có biểu hiện thiếu vitamin gây viêm đa dây thần kinh, viêm mép môi, chấm bầm ở da, sừng hóa da, lông, tóc, móng,.. Những người thể nặng còn có chứng vàng da, cổ trướng. Nếu không có các biện pháp điều trị sẽ dẫn đến biến chứng xơ teo gan. PHÒNG BỆNHĐể phòng bệnh cần có chế độ ăn uống, phòng bệnh sinh hoạt điều độ, bỏ rượu, thuốc lá, uống bia có giới hạn. Tập luyện thể dục thường xuyên, trong chế độ ăn nên tăng rau tươi, hoa quả không nên ăn nhiều mỡ, đường và các phủ tạng động vật. Tăng cường dinh dưỡng bằng cách ăn tăng đạm thực vật, thịt, cá và nhiều vitamin, đặc biệt là vitamin B1 50-100mg trong ngày. Khám sức khỏe định kỳ, điều chỉnh cân nặng hợp lý và điều trị theo chỉ định bác sĩ chuyên khoa. Kiêng hoặc tạm ngưng uống nhiều bia rượu là việc đầu tiên nên làm, nhất là gan chưa bị ứ đọng mỡ nhiều và xơ gan nặng. Ăn uống hợp lý, không nên ăn chuyên một loại thức ăn nào dó để phòng ngừa thiếu dưỡng chất. Trong điều kiện tổng năng lượng nhất định phải thực hiện chế độ ăn giàu protein, ít mỡ, hạn chế đường, đồng thời chú ý tăng các loại vitamin. Không nên nhịn ăn giảm béo một cách không khoa học, vì giảm béo dễ dẫn đến chán ăn, là điều kiện để hình thành bệnh gan nhiễm mỡ. Muốn giảm béo khoa học phải kết hợp giữa ăn uống với vận động thích hợp để giảm mỡ dần dần, nếu mỗi tháng giảm 5 kg thì nguy cơ nhiễm mỡ là rất lớn. Đối với những người bị viêm loét hệ tiêu hóa, chứng mất trí, bệnh tiêu hóa mạn tính,... nên tích cực điều trị kịp thời, điều chỉnh dinh dưỡng hay mất cân đối về mặt ăn uống mà gây nên gan nhiễm mỡ. Cần đặc biệt chú ý tình trạng suy dinh dưỡng trẻ bị cai sữa, vì vậy khi cai sữa phải bổ sung nhiều dinh dưỡng cho trẻ, nhất là protein. Một nghiên cứu của Tổ chức Liver Foundation (Mỹ) cho thấy mặc dù chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu gan nhiễm mỡ, nhưng một số trị liệu có thể giúp giảm tình trạng tổn thương gan, bao gồm: giảm cân hợp lý thông qua chế độ ăn cân bằng, có lợi cho sức khỏe và tập luyện thường xuyên; giảm nồng độ triglyceride thông qua chế độ ăn, tập luyện và uống thuốc hạ mỡ trong máu; không uống rượu bia và định kỳ kiểm tra sức khỏe chung và khám chuyên khoa bệnh về gan mật.
|