|
Xét nghiệm sán lá gan lớn trong phòng thí nghiệm (Ảnh: Ng. Huyền) |
Đồng nhiễm viêm gan siêu vi với sán lá gan lớn
Sán lá gan lớn trên bệnh nhân nhiễm viêm gan siêu vi ACó một vài tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng của một viêm gan virus cấp, điều này lại âm tính khi kiểm tra marker viêm gan A. Chúng phải được chẩn đoán phân biệt với một số viêm gan khác như viêm gan virus B,C,D,..gây vàng da cơ học. Những ca bệnh có biểu hiện lâm sàng như thế gợi cho thầy thuốc nghĩ đến bệnh ký sinh trùng, như bệnh sán lá gan lớn-có ảnh hưởng lên hệ gan mật, gây sự thay đổi phì đại và tình trạng cholestasis kéo dài trong đường mật và có thể gây xơ gan. Trong ca báo cáo này với chẩn đoán ban đầu là viêm gan siêu vi A cấp nặng (anti-HAV IgM+), mặc dù xét nghiệm máu ngoại vi cho thấy tăng bạch cầu ái toan mức độ trung bình, siêu âm cho hình ảnh tổn thương ở nhiều vị trí trong gan, điều này khiến chúng ta nghĩ đến sán lá gan lớn, sau đó xác định lại bằng huyết thanh học. Điều trị nội khoa kịp thời cho thấy triệu chứng cải thiện và tình trạng bệnh nhana phục hồi nhanh chóng. Bệnh sán lá gan lớn mạn tính ở người: có thể là một nguyên nhân khiến cho xét nghiệm gan bất thường mà không giải thích được Đó là những nhận xét do nhóm tác giả Hussein N. G.A, Mahmoud M. M, Eelsayad M. H, Abdel-tawab S.M ghi nhận về viêm gan virus B và C đóng vai tò như những tác nhân quan trọng trong bệnh lý mạn tính ở gan, trong khi đó sán lá gan cũng vậy. Trong nghiên cứu này, nhằm đánh giá tần suất gặp phải viêm gan B và/hoặc C trên những ca bệnh sán lá gan lớn mạn tính. Các thông só về xét nghiệm như đếm trứng sán, test huyết thanh IHAT, nồng độ Hb, tổng số bạch cầu chung và bạch cầu eosin riêng phần, bilirubine huyết thanh, aspartate aminotransferase (AST) huyết thanh, alanine aminotransferase (ALT), alkaline phosphatase (ALP) và acid phosphatase (ACP) huyết thanh cũng được xét nghiệm. Cả các thông số γ-glutamyltransferase (GGT), arylsulphatase (ASA) và nồng độ lipid peroxide. Kết quả cho thấy nồng độ các chất nhóm xét nghiệm sau tăng lên đáng kể trong những bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn. Do đó, việc xác định GGT, ASA và nồng lipid peroxide nên đuowjc bổ sung vào trong danh mục các xét nghiệm chức năng gan để chẩn đoán bệnh này. Viêm gan siêu vi B không có phát hiện trong bất kỳ ca nào trong số 27 ca nhiễm sán lá gan mạn tính được nghiên cứu, trong khi viêm gan siêu vi C thì phát hiện có 2 (7%) số ca. Tuy nhiên, sự rối loạn đáng kể ở các thông số sinh hóa đã được phát hiện trong số các bênh nhân đồng nhiễm sán lá gan lớn với viêm gan siêu vi C. Viêm gan siêu vi B và C trong số những ca nhiễm sán lá gan mạn tính Theo thông tin đăng tải trên tạp chí của Hội y tế công cộng Ai Cập (The Journal of the Egyptian Public Health Association) cho biết huyết thanh từ 153 trường hợp nhiễm sán lá gan mạn tính được sàng lọc các chỉ điểm viêm gan siêu vi B tức là các marker HBsAg, anti HBc và anti HBs và anti-HCV thông qua sử dụng kỹ thuật ELISA.Xét nghiệm phân định lượng và đánh giá các nồng độ enzyme của gan như AST, ALT, bilirubin trong một nghiên cứu quần thể tiến hành. HBsAg (+) trong 5 ca (3.3%), anti HBs trong 13 ca (8.5%), HBexposed (HBex) trong 44 ca (28.8%) và anti HCV trong 13 ca (8.5%) mẫu huyết thanh của bệnh nhân. Các chất chỉ điểm HBV và HCV cao hơn ở nhóm tuổi người già hay cao tuổi hơn có ý nghĩa thống kê. Liên quan đến yếu tố gia đình có chỉ điểm viêm gan, thì 7 (15.9%) trong số 44 trường hợp có HBex (+) thì có đến 2 cá nhân trên mỗi gia đình có bằng chứng phơi nhiễm với virus viêm gan B. Sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê ở nhóm bị sán lá gan lớn và thông số chức năng gan của viêm gan. Thông số về gan trên những bệnh nhân bị viêm gan virus C và/ hoặc nhiễm sán lá gan lớn có sự thay đổi lớn và khó xác định ảnh hưởng ưu thế tác nhân Nghiên cứu được tiến hành do nhóm tác giả Wahib AA, el-Nasr MS, Mangoud AM, el-Shazly AM, Morsy AT, thuộc khoa y học nhiệt đới, đại học Al Azhar, Cairo, Ai Cập. Trong nghiên cứu này, 20 bệnh nhân dương tính HCV/PCR-RNA, không có nhiễm sán lá gan lớn, bao gồm 15 đàn ông và 5 nữ tuổi từ 17-78. Thử nghiệm chức năng gan cho thấy albumin huyết thanh giảm và tăng globuline đồng thời ở 15 bệnh nhân (75%), protein toàn phần giảm ở 3 bệnh nhân (15%), bilirubin toàn phần tăng trong 7 bệnh nhân (35%), AST/ALT tăng trong 3 bệnh nhân (15%). Tỷ lệ A/G giảm trong 12 ca (60%). 10 cá nhân bình thường (5 nam và 5 nữ), cho trị số cận lâm sàng bình thường. Tuy nhiên, có một nữ 19 tuổi không tăng bilirubin trực tiếp có ý nghĩa thống kê (0.26 mg/dl). Xét nghiệm chức năng gan cho biết: 1 bệnh nhân tăng tỷ lệ AST/ALT, giá trị globulin giảm (-0.2) trong một ca khác (10%) và tỷ lệ A/G tăng (+0.3 à +0.6) trong 3 trường hợp (30%). Trong số 20 bênh nhân ngẫu nhiên được chọn (15 nam và 5 nữ) xét nghiệm (+) HCV với ELISA cho biết tăng ALT trong 17 ca (85%), AST tăng trong tất cả 20 bệnh nhân (100%), albumin huyết thanh giảm trong 9 trường hợp (45%) và tăng 1 ca (5%). Protein toàn phần giảm trong số 3 trường hợp (15%), bilirubin toàn phần tăng trong 7 ca (35%) và bilirubin trực tiếp tăng trong 4 ca (20%), giá trị AST/ALT tăng trong 3 bệnh nhân (15%), giá trị globulin tăng trong 15 bệnh nhân (75%). Tỷ số A/G giảm trong 12 trường hợp (60%). Trong số trên, 3 bệnh nhân nhiễm sán máng, 1 ca nam 30 tuổi có tăng AST/ALT, globulin bình thường, tăng tỷ A/G và xét nghiệm HBs-Ag (+). Bệnh nhân thứ 2 là một nam 33 tuổi có trị số AST/ALT bình thường, globuline bình thường, tăng A/G và (+) với HBs-Ag. Bệnh nhân thứ 3 là một nữ 19 tuổi có xét nghiệm AST/ALT bình thường, globulin bình thường, tăng tỷ lệ A/G và (+) với HBs-Ag; 2 bênh nhân nhiễm sán lá gan lớn, trong đó 1 nam 20 tuổi có tăng AST/ALT, globulin bình thường, tỷ lệ A/G bình thường và HBs-Ag (-), bệnh nhân thứ 2 là nữ 26 tuổi có giá trị AST/ALT bình thường, globuline bình thường, tăng tỷ lệ A/G và (+) với HBsAg. Riêng 4 bệnh nhân khác còn lại có HbsAg (+) lại không nhiễm ký sinh trùng; ca khác có HCV/ELISA (+) lại có HbsAg (-). HCV/ELISA có thể phản ứng chéo với HBsAg và/hoặc với tăng ALT và cho kết quả dương tính giả HCV. Kết quả này cho thấy ELISA cải tiến trong việc phát hiện HCV là không nhạy như phản ứng PCR/RNA. Trong số 41 bệnh nhân sán lá gan lớn (26 nam và 15 nữ) thì có 14 ca HCV/ELISA (+) chiếm 34.1%, nhưng chỉ 6 ca dương tính với HCV/PCR (14.6%). Tăng ALT trong 18 trường hợp sán lá gan (43.9%), AST trong 23 bệnh nhân (56.1%) nhưng albumin giảm ở 7 bệnh nhân (17.1%), protein toàn phần giảm trong 5 ca (12.2%), nhưng bilirubin toàn phần tăng trong 14 ca (34.1%) và bilirubin trực tiếp tăng trong 2 ca (4.9%). Xét nghiệm chức năng gan của 14 trường hợp nhiễm sán lá gan và ELISA (+) HCV cho thấy tăng AST/ALT trong 6 trường hợp (42.9%), globulin tăng trong 3 trường hợp (21.4%) và giảm trong 6 trường hợp (42.8%). Tỷ lệ A/G giảm trong 4 ca (28.6%) và tăng trong 8 ca (57.2%). Xét nghiệm gan không thấy sán lá gan lớn 27 bệnh nhân, nhưng tỷ lệ AST /ALT tăng trong 8 ca (29.6%), globulin tăng trong 1 bệnh nhân (3.7%) nhưng giảm trong 10 bệnh nhân (37.0%) và tỷ lệ A/G tăng trong 13 trường hợp(48.1%).
|