|
Các xét nghiệm viên soi lam máu phát hiện ký sinh trùng sốt rét. |
Phương pháp xác định mật độ ký sinh trùng sốt rét trên 1 µl máu
Thông thường khi xét nghiệm phát hiện ký sinh trùng sốt rét, các xét nghiệm viên thường xác định mật độ ký sinh trùng bị nhiễm trên lam máu giọt dày bằng dấu cộng (+) với các mức độ từ một dấu cộng (+) đến bốn dấu cộng (++++) tuỳ theo số lượng ký sinh trùng được phát hiện trên vi trường kính hiển vi, thể hiện mật độ cao thấp, nặng nhẹ. Phương pháp này chỉ mang tính chất định tính và thực hiện ở các cơ sở tuyến đầu. Đối với tuyến bệnh viện huyện trở lên, việc xác định mật độ ký sinh trùng trong 1 µl máu được lấy trên giọt máu dày cần phải thực hiện vì dễ dàng được chấp nhận hơn. Phương pháp xác định mật độ ký sinh trùng sốt rét trên lam máu giọt dày theo ký hiệu dấu cộng (+) chỉ mang tính cách định tính, được sử dụng khi không thể thực hiện được phương pháp đếm ký sinh trùng trong 1 µl máu. Vì vậy tại các bệnh viện, việc xác định mật độ ký sinh trùng nên thực hiện theo phương pháp đếm ký sinh trùng trong 1 µl máu vì đây là phương pháp thực hành bảo đảm đủ độ chính xác vì dựa trên số lượng ký sinh trùng/ µl máu trong một lam máu giọt dày. Số ký sinh trùng đếm được tính theo số lượng bạch cầu đã được xác định trước. Trung bình 8.000 bạch cầu/ µl máu được xem như làm chuẩn. Mặc dù có thể chưa chính xác do sự thay đổi số lượng bạch cầu giữa những người khoẻ mạnh và sự thay đổi này càng lớn hơn ở những người bị bệnh. Độ chuẩn này có thể cho phép so sánh một cách hợp lý. Trước khi đếm ký sinh trùng, cần xét nghiệm khoảng 0,25 µl máu (khoảng 100 vi trường, sử dụng thị kính số 7 và vật kính dầu 100) trên lam máu giọt dày để xác định chủng loại ký sinh trùng và các thể loại của giai đoạn phát triển ký sinh trùng. Khi đã thực hiện xong, phương pháp đếm ký sinh trùng được tiến hành phù hợp trên lam máu giọt dày dương tính. Dùng 2 máy đếm cầm tay để đếm cùng một lúc số ký sinh trùng và số bạch cầu riêng rẽ. Nếu sau khi đếm được 200 bạch cầu ở trên một máy đếm và đếm được 10 ký sinh trùng hoặc nhiều hơn ở máy đếm còn lại thì dừng lại, ghi kết quả số ký sinh trùng tương ứng với số 200 bạch cầu. Nếu sau khi đến được 200 bạch cầu nhưng số ký sinh trùng chỉ đếm được 9 ký sinh trùng hay ít hơn thì tiếp tục đếm cho đủ 500 bạch cầu rồi dừng lại, ghi kết quả số ký sinh trùng tương ứng với số 500 bạch cầu. Trong mỗi trường hợp, số lượng ký sinh trùng tương ứng với số lượng bạch cầu đếm được có thể chuyển đổi thành số ký sinh trùng/ 1 µl máu bằng công thức toán học đơn giản: Số lượng ký sinh trùng đếm được x (nhân) 8.000 : (chia) số lượng bạch cầu đếm được = Số ký sinh trùng/ µl máu. Điều này có nghĩa là nếu đếm được 200 bạch cầu, số lượng ký sinh trùng nhân với 40; nếu đếm được 500 bạch cầu, số lượng ký sinh trùng nhân với 16. Trên thực tế, thông thường đếm tất cả các thể loại ký sinh trùng sốt rét hiện diện trên lam máu bao gồm cả thể hữu tính và thể vô tính. Cá biệt có thể đếm riêng số giao bào của Plasmodium falciparum, nhưng khi đã đếm xong, phải đếm số ký sinh trùng sốt rét chung. Đây là một phương pháp cần thiết để xác định mật độ ký sinh trùng sốt rét tương đối chính xác theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Các cơ sở y tế, đặc biệt ở tuyến trên cần thực hiện theo phương pháp này, thay thế cho phương pháp xác định ký hiệu bằng dấu cộng (+).
|