TRANG CHỦ | Chủ nhật, ngày 24/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
55 thuốc (năm 2001) 70 thuốc (năm 2002) 77 thuốc (năm 2003) 62 thuốc (năm 2004) 56 thuốc (năm 2005) 66 thuốc (năm 2006) 83 thuốc (năm 2007) 94 thuốc (năm 2008). Riêng thuốc đông dược, phần lớn được sản xuất ở các doanh nghiệp chưa đạt GMP nên tỷ lệ thuốc đông dược không đạt chất lượng chiếm tỷ lệ cao: 24/54 mẫu thuốc sản xuất trong nước. Số lượng thuốc nhập khẩu không đạt chất lượng khá cao, đã thu hồi và đình chỉ 29 lô thuốc nhập khẩu, chiếm tỷ lệ 34,8%. Tỷ lệ thuốc giả phát hiện trong năm 2007 là 0,17%. Năm 2008, Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) đã nhận được trên 2.000 báo cáo về các trường hợp nghi ngờ phản ứng có hại của thuốc. Tuy nhiên, các chuyên gia dược khẳng định, đây là số liệu báo cáo quá nhỏ so với con số thực tế. Những báo cáo này cho thấy, hầu hết các trường hợp đều liên quan tới việc sử dụng các loại thuốc thường dùng tại Việt Nam như kháng sinh, thuốc trợ tim và thuốc giảm đau (nhóm kháng sinh chiếm nhiều nhất với gần 46%, các nhóm thuốc khác như kháng viêm không steroide NSAID là 9%, morphin và dẫn chất 1.1%, thuốc y học cổ truyền 2.7%, thuốc điều trị lao 14.7%... ). Song các số liệu trên chỉ là con số và số liệu vẫn chưa báo cáo đầy đủ. Vì tầm quan trọng của hoạt động thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc, từ năm 1994, với sự hỗ trợ chuyên gia và kinh phí của Tổ chức SIDA - Thuỵ Điển, Việt Nam đã bước đầu triển khai công tác này một cách có hệ thống. Cụ thể đã thành lập Trung tâm Theo dõi phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reaction_ADR) tại Hà Nội (năm 1994), Trung tâm Thông tin thuốc và ADR tại thành phố Hồ Chí Minh (1997) và là thành viên của Hệ thống theo dõi ADR quốc tế vào năm 1998. Trong giai đoạn 2004- 2008, hai Trung tâm này đã tiếp nhận 6.164 báo cáo về ADR; hoàn thành thẩm định 2.805 báo cáo ADR trong giai đoạn 2004-2006, đang thẩm định báo cáo năm 2007, 2008; tổ chức 60 lớp tập huấn thông tin thuốc và ADR cho cán bộ y tế; xuất bản một số tài liệu, poster về ADR. Bên cạnh đó, Bộ Y tế cũng không ngừng hoàn thiện các quy định pháp lý về tổ chức, theo dõi ADR nói riêng và cảnh giác dược nói chung trong các văn bản: Luật Dược, các Quy chế thông tin, quảng cáo thuốc; đăng ký thuốc, quản lý chất lượng thuốc, thu hồi thuốc; tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực, các tổ chức quốc tế để triển khai hoạt động cảnh giác dược. Đặc biệt, ngày 30/6/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 154/2006/QĐ-TTg V/v phê duyệt Đề án “Quản lý nhà nước về dược phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm giai đoạn 2006 – 2015”, trong đó có nội dung: kiện toàn Trung tâm Thông tin thuốc và ADR tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và thành lập 3 Trung tâm Thông tin thuốc và ADR khu vực miền núi phía Bắc, Đà Nẵng và Cần Thơ. Vừa qua, vào ngày 24 tháng 03 năm 2009, Bộ Y tế đã ký quyết định thành lập Trung tâm Thông tin và theo dõi phản ứng có hại của thuốc, trực thuộc Trường Đại học Dược Hà Nội. Việc thành lập Trung tâm nhằm giúp Bộ Y tế xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin thuốc và cảnh giác dược; cung cấp thông tin, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến, hợp tác quốc tế, tư vấn dịch vụ về thông tin thuốc và cảnh giác dược. Từ nay đến năm 2010, Trung tâm sẽ tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức các chương trình đào tạo nhân lực, xây dựng quy chế, các hoạt động cho công tác chỉ đạo tuyến, triển khai công tác tuyên truyền, xuất bản, thành lập nhóm tư vấn dược sĩ lâm sàng. Việc Bộ Y tế ký quyết định thành lập Trung tâm trên được đánh giá là bước đột phá quan trọng. Đây sẽ là đơn vị đầu ngành về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc, giúp Bộ Y tế xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin thuốc và cảnh giác dược.Cảnh giác dược bao gồm các hoạt động liên quan đến việc phát hiện, đánh giá, nghiên cứu và phòng tránh các phản ứng có hại hoặc bất kỳ vấn đề nào liên quan đến thuốc. Tuy nhiên, hệ thống các trung tâm thông tin thuốc và theo dõi tác hại thuốc từ trung ương và các cơ sở điều trị trên toàn quốc đều chưa hoàn chỉnh về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ. Hiệu quả hoạt động phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài trợ, dự án. Đặc biệt, Việt Nam thiếu đội ngũ cán bộ được đào tạo đầy đủ về các phản ứng có hại của thuốc, các cán bộ y tế e ngại gửi báo cáo về ADR vì sợ trách nhiệm pháp lý, mất thời gian, không biết nguyên nhân do ADR hay sai sót do điều trị. Nhiều sản phẩm thuốc sau khi được cấp phép lưu hành, theo dõi qua một thời gian ngắn sử dụng đã phải rút khỏi thị trường vì gây ra những tác hại nghiêm trọng Tuy nhiên, hoạt động thông tin thuốc và cảnh giác Dược tại Việt Nam còn hạn chế, không có định hướng lâu dài, đặc biệt giai đoạn sau 13 năm hỗ trợ của Tổ chức SIDA-Thuỵ Điển. Đó là, hệ thống thông tin thuốc và cảnh giác dược ở trung ương, khu vực, cơ sở điều trị: chưa hoàn chỉnh về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp; cán bộ triển khai thông tin thuốc và cảnh giác dược: thiếu, không chuyên trách, hạn chế kinh nghiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu (thông tin thuốc, phản ứng có hại của thuốc, cảnh giác Dược, dược lý, sinh hoá lâm sàng, dịch tễ, thống kê...); cơ sở vật chất: thiếu trang thiết bị, cơ sở dữ liệu, tài liệu chuyên môn; nhận thức về thông tin thuốc và cảnh giác Dược của cán bộ y tế, doanh nghiệp và người tiêu dùng hạn chế; hoạt động tiếp nhận và phản hồi báo cáo phản ứng có hại của thuốc không thường xuyên và kịp thời, thiếu chuyên gia thẩm định; công tác đào tạo, đào tào lại, thông tin, tuyên truyền không chú trọng; kinh phí hoạt động thông tin thuốc và cảnh giác Dược khó khăn, hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước; hợp tác quốc tế còn hạn chế, thiếu kế hoạch tổng thể và điều phối chung. Để khắc phục tình trạng này và nhằm phát huy những kết quả bước đầu về hoạt động thông tin thuốc và Cảnh giác dược trong 13 năm qua, đặc biệt tạo bước đột phá trong giai đoạn 3-5 năm tới, Trường Đại học Dược Hà Nội, Cục Quản lý Dược Việt Nam phối hợp với Tổ chức Khoa học Quản lý về Sức khoẻ (MSK) tổ chức Hội thảo Đồng thuận về Cảnh giác dược vào ngày 25/3/2009. Tại Hội thảo, tiến sĩCao Minh Quang, Thứ trưởng Bộ Y tế nhận định phần lớn mọi quốc gia trên thế giới đều thiết lập hệ thống và ban hành các quy định pháp lý về hoạt động thông tin thuốc, cảnh giác dược phù hợp với hệ thống y tế ở nước đó. Tuy nhiên, tại Việt Nam những liên quan đến hoạt động này còn rất hạn chế, không có định hướng lâu dài dẫn đến việc trên thực tế nhiều sản phẩm thuốc sau khi được cấp phép lưu hành đã bị rút khỏi thị trường vì gây ra những tác dụng có hại nghiêm trọng, vượt trội hơn cả lợi ích điều trị của thuốc đó. Thạc sĩ Nguyễn Tiến Khoa, Vụ Điều trị (Bộ Y tế) cho biết nhiều loại thuốc tây, đông y do không biết cách sử dụng, sử dụng không đúng liều, không đúng thời điểm đã gây ra phản ứng thuốc rất hại cho người dùng. Tại Mỹ, người ta vừa công bố các loại thuốc kháng sinh như Cipro (hãng Bayer AG) có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm và giãn đứt dây chằng. Cụ thể là các loại thuốc kháng sinh như Avelox (hãng Bayer); Facitve (Oscient) và Proquin XR (Depomed). Ngoài ra là các loại thuốc Levaquin và Floxin (Johnson & Johnson), Noroxin (Merck & Co). Các thuốc trên đều thuộc nhóm kháng sinh fluoroquinolon. Thực tế, các loại thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau và thuốc trợ tim rất hay gây tác dụng phụ đối với người sử dụng. Người ngoài 60 tuổi và những người từng cấy ghép các bộ phận trong cơ thể, dùng các loại thuốc chứa steroid và việc lạm dụng thuốc kháng sinh trong việc điều trị các bệnh do vi khuẩn gây ra là nguy cơ rất tiềm tàng cho phản ứng có hại của thuốc. Với các thuốc kháng sinh nhóm flouroquinolon, người sử dụng có nguy cơ giãn dây chằng cao hơn từ 3 - 4 lần. Khi đã bị giãn dây chằng thì không có cách điều trị nào khác là phải phẫu thuật. Đã phẫu thuật rồi mà có bệnh nhân còn ở trong tình trạng không thể hoạt động bình thường trở lại. ·Trong giai đoạn từ 2006-2007: Đánh giá thực trạng hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về dược phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm; Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dược phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm; Kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về dược phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm từ trung ương đến địa phương; Đầu tư nâng cấp Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương, Viện Kiểm nghiệm thuốc thành phố Hồ Chí Minh, Viện Kiểm định quốc gia vaccine và sinh phẩm y tế đạt tiêu chuẩn quốc tế; nâng cấp khoa kiểm nghiệm thực phẩm thuộc Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh thành Trung tâm Kiểm nghiệm thực phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế; Củng cố, kiện toàn và đầu tư nâng cấp về tổ chức, cơ sở vật chất và trang thiết bị cho 2 trung tâm thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh. ·Giai đoạn từ 2008 – 2012: Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực dược phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm; Thành lập 3 Trung tâm thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc tại khu vực miền núi phía Bắc Đà Nẵng và Cần Thơ; Thành lập 3 trung tâm kiểm nghiệm thuốc, vắc-xin, sinh phẩm y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm tại khu vực miền núi phía Bắc, miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long; Thành lập 3 trung tâm thử tương đương sinh học và đánh giá sinh khả dụng của thuốc tại các thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh đạt tiêu chuẩn quốc tế; Thành lập Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia. ·Giai đoạn 2013 – 2015: Hoàn thiện và nâng cao năng lực bộ máy tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý dược phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, mỹ phẩm. Một số thông báo về phản ứng có hại của thuốc trên trang thông tin Drug information: Adverse drug reactions trong thời gian qua: Rifampicin + pyrazinamide có độc tính với gan hơn isoniazid: trong thời gian 1999 – 2001, theo dõi 224 bệnh nhân bắt đầu qui trình điều trị 2 tháng với pyrazinamid mỗi ngày 15mg/kg + rifampicin mỗi ngày 10mg/kg hoặc quy trình 6 tháng isoniazid mỗi ngày 300mg. Chức năng gan được xét nghiệm ở mức cơ bản và sau đó định kỳ từng tháng. Người dùng rifampicin + pyrazinamide mà có độc với gan (SGPT > 160 UI/L) được loại trừ khỏi nghiên cứu. Kết thúc điều trị ở 78/110 (71%) bệnh nhân trong nhóm rifampicin + pyrazinamide và ở 67/114 (59%) người thuộc nhóm isoniazid. Nói chung, số người có độc tính với gan là 14 (13%) ở nhóm rifampicin + pyrazinamide và là 5 (4%) ở nhóm isoniazid, phần lớn gặp độc tính sau khi khởi đầu dùng thuốc 2- 4 tuần. Độc tính nghiêm trọng với gan (SGPT > 1600 UI/L) gặp ở 2 bệnh nhân (5%) trong số 43 bệnh nhân đầu tiên dùng rifampicin+pyrazinamide. Trong số 67 bệnh nhân còn lại (uống rifampicin+pyrazinamide) không thấy có độc tính nghiêm trọng với gan. Ibuprofen làm tăng huyết áp ở bệnh nhân dùng thuốc ức chế men chuyển: Iburofen làm tăng rõ rệt huyết áp ở bệnh nhân đã được ổn định huyết áp bằng thuốc ức chế men chuyển; ngược lại, celecoxib hoặc nabumetone không có tác dụng ngoại ý này. Trong nghiên cứu đa trung tâm, chọn ngẫu nhiên, có kiểm soát với placebo trên tổng cộng 359 bệnh nhân (tuổi trung bình bằng 54) đang dùng thuốc ức chế men chuyển, chia ra nhóm nabumetone (n = 91; mỗi lần 1000mg, ngày hai lần), nhóm celecoxib (Celebrex; n = 87; mỗi lần 200mg, ngày 2 lần), nhóm ibuprofen (n = 90; mỗi lần 800mg, ngày 3 lần) và nhóm placebo (n = 91). Với mỗi thuốc dùng 4 tuần liền. So sánh với placebo thì ibuprofen làm tăng rõ rệt huyết áp tâm thu và tâm trương nhưng nabumetone và celecoxib làm tăng huyết áp không đáng kể và không khác biệt so với nhóm placebo. Nếu xét về tỷ lệ số bệnh nhân có tăng huyết áp tâm thu có ý nghĩa lâm sàng thì thấy rõ rệt nhất ở nhóm ibuprofen (16,7%), còn ở nhóm nabumetone (5,5%) hoặc ở nhóm celecoxib (4,6%) thì tỷ lệ này khác biệt không đáng kể so với nhóm placebo (1,1%). Các tác giả khuyên nên theo dõi chặt chẽ huyết áp ở bệnh nhân dùng phối hợp thuốc hạ áp và thuốc chống viêm không steroid và nên chọn nabumetone hoặc celecoxib và tránh phối hợp với ibuprofen, làm như vậy sẽ giảm thiểu sự tăng huyết áp. Dexamethasone làm giảm nguy cơ huyết khối tĩnh mạch so với prednisone: dùng dexamethasone thay prednisone làm giảm rõ rệt sự khởi đầu của huyết khối tắc mạch ở trẻ em bị bệnh bạch cầu nguyên lymphocyte. Nghiên cứu 280 trẻ dùng prednison và 56 trẻ dùng dexamethasone, kết quả thấy có 29 trẻ (10,4%) ở nhóm prednisone gặp tai biến về triệu chứng mạch máu, còn ở nhóm dexamethasone chỉ có 1 bệnh nhân (1,8%) các yếu tố nguy cơ có ở 24/29 huyết khối ở nhóm prednisone, trong khi ở nhóm dexamethasone chỉ có 1 trẻ bị huyết khối. Không có tăng nhồi máu cơ tim cấp với thuốc ức chế chọn lọc COX2: thuốc chống viêm không steroid (NSAID), loại ức chế chọn lọc COX2 như celecoxib (Clelebrex) và rofecoxib (Vioxx) không có vẻ làm tăng rõ rệt nguy cơ ngắn ngày về nhồi máu cơ tim cấp ở bệnh nhân cao tuổi trước đây chưa dùng NSAID. Ngay cả naproxen hoặc các NSAID không chọn lọc COX2 khác cũng không có tác dụng bảo vệ tim. Trong 4 năm, đã điều trị các bệnh nhân cao tuổi (≥ 66 tuổi) dùng celecoxib (n = 15.271), hoặc rofecoxib (n = 12.156), naproxen (n = 5.669), các NSAID không phải naproxen và không chọn lọc COX2 (n=33.868) so với nhóm chứng không dùng NSAID (n=100.000). So với nhóm chứng không dùng NSAID, thấy không có khác biệt về nguy cơ nhồi máu cơ tim giữa những người dùng celecoxib, refecoxib, naproxen hoặc dùng NSAID không phải naproxen. Các tác giả cho thấy từ điều tra trên, đã giảm bớt lo lắng về sự tăng gây nguy cơ nhồi máu cơ tim cấp do celecoxib và rofecoxib nhưng còn phải nghiên cứu tiếp về nhận định của các tác giả khác về lợi ích bảo vệ tim của naproxen. Cơ quan Thực dược phẩm Mỹ cấm dùng chất bố sung chứa ephedrin: FDA vừa có thông báo cấm lưu hành các chất bổ sung dinh dưỡng có chứa Ma hoàng (và hoạt chất ephedrin), báo động cho người mua và thông báo cho các xí nghiệp dược phẩm đây là quyết định cuối cùng, với chứng cớ “các chất bổ sung dinh dưỡng chứa alcaloid ephedrin đã gây nguy cơ rất vô lý về bệnh tật”. Quyết định này phải được chấp hành trong vòng 60 ngày sau khi thông báo. Phối hợp các thuốc chống parkinson làm tăng rối loạn chức năng tim mạch: các nhà nghiên cứu Đức nhận định bệnh nhân Parkinson uống levadopa phối hợp với các thuốc khác chống Parkinson sẽ có tỷ lệ rối loạn chức năng tim mạch cao hơn nhóm chỉ dùng đơn độc levodopa. Đánh giá sự bất thường về điện tâm đồ, phản xạ tim mạch và về hạ huyết áp tư thế đứng ở 148 bệnh nhân (tuổi trung bình: 66,2) có bệnh Parkinson tự phát có uống levodopa riêng rẽ hoặc phối hợp với một trong các thuốc sau: bromociptine, ropiniorle, selegiline, thuốc đối kháng thụ thể acetylcholine, amantadine. Kết quả có bất thường về ECG ở 40-52% bệnh nhân dùng phối hợp thuốc, trong số đó có 48 – 56% người có tiền sử bệnh tim mạch. Ngược lại, bất thường về ECG chỉ có ở 20% bệnh nhân dùng đơn độc levodopa và cũng chỉ xảy ra ở người đang có bệnh tim mạch. Bất thường về ECG, phản xạ tim mạch và hạ huyết áp tư thế đứng hay xảy ra hơn ở người phối hợp levodopa với bromocriptine hoặc selegiline so với người chỉ dùng levodopa đơn độc. Amantadin và ropinrole ít có ảnh hưởng nhất tới các thông số chức năng tim mạch. Các bất thường về ECG, phản xạ tim mạch và sự hạ huyết áp tư thế đứng trước các cải thiện rõ rệt hoặc thuyên giảm ở các nhóm có dùng bromocriptine và selegiline mà ngừng dùng các thuốc này. Nhóm thuốc –Statin: những yếu tố nguy cơ về bệnh cơ và tiêu cơ vân: tại Australia có lưu hành 4 loại Statin (là thuốc ức chế HMG-CoA-reductase) để chống rối loạn lipid-máu, đó là simvastatin (Zocor), atorvastatin (Lipitor), pravastatin và fluvastatin. Mỗi statin đều có thể gây bệnh cơ hoặc tiêu cơ vân. Cerivastatin (Lipobay) đã bị rút khỏi thị trường do tỷ lệ cao không chấp nhận được về tiêu cơ vân, có một số tử vong, đặc biệt khi phối hợp với gemfibrozil (Lopid). Tỷ lệ rối loạn cơ trong thử nghiệm lâm sàng với statin không có khác biệt rõ rệt khi so với nhóm placebo, nhưng tỷ lệ này sẽ tăng lên ở những người có kèm nhiều bệnh hoặc dùng nhiều thuốc có tương tác bất lợi với statin. Với simvastatin và atorvastatin, vì có qua chuyển hoá ở gan nhờ xúc tác của cytochrom P450 (CYP3A4), thì các yếu tố nguy cơ gây đau cơ, bệnh cơ và đặc biệt là tiêu cơ vân sẽ như sau: các chất ức chế sẽ chuyển hoá qua CYP3A4), cyclosporin, diltiazem, verapamil, kháng sinh nhóm macrolid, thuốc chống nấm nhóm azol, chất ức chế protease, nước quả bưởi; chất ức chế chuyển hoá qua đường khác: gemfibrozil; trạng thái bệnh lý: tiểu đường, suy tuyến giáp, bệnh gan thận; tuổi cao: trên 70 tuổi; liều cao statin: trên 40mg/ngày. Australia đã nhận được 91 báo cáo về tiêu cơ vân với simvastatin, 26 với atorvastatin và nhiều báo cáo về đau cơ, bệnh cơ hoặc tăng nồng độ creatin-kinase (CK) trong máu. Theo bảng dưới đây, riêng với simvastatin, thì các yếu tố nguy cơ hay gặp nhất mà gây tiêu cơ vân là tuổi tác ³ 70 tuổi (40 báo cáo), liều cao ³ 40mg (33 báo cáo), phối hợp với cyclosporin (19), gemfibrozil (21) ditiazem(20) và bệnh tiểu đường (15 báo cáo). Trên nửa tổng số trường hợp độc tính với simvastatin gây tiêu cơ vân là do nhiều yếu tố nguy cơ cộng lại. Người có nhiều yếu tố nguy cơ có thể gặp tiêu cơ vân dễ hơn là bị rối loạn cơ nhẹ hơn. Pravastatin và fluvastatin không chuyển hoá qua CYP3A4 nên ít bị tăng nồng độ trong huyết tương khi tương tác với các thuốc khác (xem bảng). Những yếu tố nguy cơ trội với pravastatin và fluvastatin thường là cao tuổi, liều cao. Số trường hợp tiêu cơ vân ở 2 thuốc này là thấp, có thể do ít có nguy cơ tương tác thuốc, cũng có thể do Australia ít dùng 2 loại statin này (từ 1992 đến 11/1993, 85% các statin được dùng ở Australia là simvastatin và atorvastatin). Khuyến cáo cần thận trọng khi dùng liều cao của bất kỳ loại statin nào, chú ý đặc biệt đến người cao tuổi, người suy gan, suy thận, suy tuyến giáp, tiểu đường. Đặc biệt thận trọng khi phối hợp simvastatin (hoặc atorvastatin) với gemfibrozil, cyclosporin hoặc diltiazem, nhóm kháng sinh macrolid, nhóm chống nấm azol, khi đó cần tạm ngừng dùng statin. Người bệnh cần báo cáo ngay với thầy thuốc hoặc dược sĩ khi gặp đau cơ, yếu cơ, nhức cơ. Tần số các yếu tố nguy cơ với statin gây rối loạn chức năng cơ
Tài liệu tham khảo 1.Nebeker JR, Barach P, Samore MH (2004). "Clarifying adverse drug events: a clinician's guide to terminology, documentation, and reporting". Ann. Intern. Med.140 (10): 795–801. 2.Aronson JK. Drug therapy. In: Haslett C, Chilvers ER, Boon NA, Colledge NR, Hunter JAA, eds. Davidson's principles and practice of medicine 19th ed. Edinburgh: Elsevier Science, 2002:147-63. 3."'Traffic-light' medicine risk website to launch". The Guardian. 2007-10-02. http://www.guardian.co.uk/business/2007/oct/02/7. 4.Rang, H. P. (2003). Pharmacology. Edinburgh: Churchill Livingstone. ISBN 0-443-07145-4. Page 146 5."Clinical Drug Use". http://www.clinicaldruguse.com/. Retrieved on 2007-09-18. 6.Phillips KA, Veenstra DL, Oren E, Lee JK, Sadee W (2001). "Potential role of pharmacogenomics in reducing adverse drug reactions: a systematic review". JAMA 286 (18): 2270–9. 7.Goldstein DB (2003). "Pharmacogenetics in the laboratory and the clinic". N. Engl. J. Med. 348 (6): 553–6. 8."Drug-Interactions.com". http://medicine.iupui.edu/flockhart/. Retrieved on 2007-09-18. 9.Weinshilboum R (2003). "Inheritance and drug response". N. Engl. J. Med. 348 (6): 529–37. Evans WE, McLeod HL (2003). "Pharmacogenomics--drug disposition, drug targets, and side effects". N. Engl. J. Med. 348 (6): 538–49. 10.DeVane CL (2002). "Clinical significance of drug binding, protein binding, and binding displacement drug interactions". Psychopharmacology bulletin. 36 (3): 5–21. 11.Benet LZ, Hoener BA (2002). "Changes in plasma protein binding have little clinical relevance". Clin. Pharmacol. Ther. 71 (3): 115–21. 12.Sands CD, Chan ES, Welty TE (2002). "Revisiting the significance of warfarin protein-binding displacement interactions". The Annals of pharmacotherapy 36 (10): 1642–4. 13."Drug-Interactions.com". http://medicine.iupui.edu/flockhart/. Retrieved on 2007-09-18. 14.Cohen JS (December 2001). "Peripheral neuropathy associated with fluoroquinolones". Ann Pharmacother 35 (12): 1540–7. 15.Casparian JM, Luchi M, Moffat RE, Hinthorn D (May 2000). "Quinolones and tendon ruptures". South. Med. J. 93 (5): 488–91. PMID 10832946.
|
|
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |