|
(ảnh trong bài chỉ mang tính minh họa) |
Bàn luận về ca bệnh áp xe gan do sán lá gan lớn
Giới thiệu Nhiễm trùng với sán lá gan lớn là một căn bệnh của động vật, chủ yếu là vật nuôi trên các đồng cỏ chăn nuôi gia súc và nuôi cừu trên khắp thế giới. Bệnh sán lá gan lớn ở người đã được báo cáo, đặc biệt nhiều ở nam Mỹ, châu Âu, châu Phi, Trung Quốc, Úc. Trong một báo cáo tổng hợp trên tổng số 2594 người bị nhiễm sán lá gan lớn, hơn một nửa trong số đó từ Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Tadjikistan. Một số báo cáo khác từ Cuba, Peru, Algeria, Egypt, Australia. Nhiễm ký sinh trùng này là do thói quen ăn các loại rau thủy sinh có chứa ấu trùng sán giai đoạn metacercariae, như trong cây cải xoong, xà lách,...Ấu trùng tồn tại trong tá tràng, di chuyển qua thành ruột non, đi qua khoang phúc mạc, xuyên thủng bao gan và cuối cùng đi vào trong đường mật-ở đó chúng sẽ trưởng thành. Thỉnh thoảng, ấu trùng có thể di chuyển và có thể không trưởng thành tại một số vị trí lạc chỗ như các mô dưới da, khoang ngực, não bộ. Tỉnh Guiline ở phía bắc Iran đã gánh chịu 2 vụ dịch sán lá gan trong những năm gần đây. Chúng tôi báo cáo một ca bệnh có một khối abces rất lớn, không điển hình nhưng là bệnh do sán lá gan. Báo cáo ca bệnh Một phụ nữ 50 tuổi đến từ tỉnh Guilan, phía bắc của Iran đã nhập viện vào khoa phẩu thuật với triệu chứng đau vùng hạ sườn (P) trong thời gian 2 tháng nay và tiếp đó đau tăng dần cường độ và thời gian. Không có bất kỳ một dấu chứng hay triệu chứng nào đi kèm trước đó hoặc trong thời gian khám bệnh. Khám thực thể trên bệnh nhân không có dấu hiệu nào đáng chú ý, ngoại trừ có dấu hiệu đau nhẹ (nhạy cảm tại vùng hạ sườn phải). Xét nghiệm cận lâm sàng, cho biết bạch cầu là 11.400/mm3 với ưu thế của tỷ lệ bạch cầu ái toan là 37%. Xét nghiệm chức năng gan bình thường, siêu âm có phát hiện ra một ổ abces gan đường kính kích thước 7-8cm, bên gan phải, song hình ảnh có bờ viền rõ, hình nang cánh hoa hoặc giả hình múi (điều này rất hiếm gặp trên các ca bệnh sán lá gan lớn, ngay cả tại Việt Nam thì hỉnh ảnh tổn thương da phần là khối tổn thương hỗn hợp âm, giảm âm, xen lẫn các vùng trống âm, bờ viền không rõ giới hạn với nhu mô lành). Chụp CT bụng cho thấy hình ảnh một khối abces lớn trên thùy phải của gan. Trong quá trình phẩu thuật, có khoảng 7-8 ổ abces với đường viền rõ nét. Chọc hút ổ abces cho thấy dịch màu nâu đặc. Cắt mảnh mô của khối abces và phần còn lại được lấp đầy bởi các mạch nối, cầu nối. Xét nghiệm mô học cho thấy nhiều lắng cặn fibrin và hình ảnh thâm nhiễm các bạch cầu đa nhân và ái toan. Sau đó, xét nghiệm IHAT cho thấy dương tính với hiệu giá kháng thể 1/1024. Chúng tôi chẩn đoán ca bệnh này là abces gan do sán lá gan vì những lý do sau đây: (1)Yếu tố dịch tễ học của vụ dịch xảy ra gần đây cùng với thời điểm khởi bệnh của bệnh nhân; (2)Các kết quả xét nghiệm mô học cho hình ảnh giải phẩu bệnh của sán lá gan lớn; (3)Huyết thanh chẩn đoán IHAT dương tính; (4)Điều trị hỗ trợ cho phẩu thuật bằng thuốc triclabendazole liều duy nhất các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng giảm dần. Trong suốt thời gian 16 tháng theo dõi sau khi điều trị phẩu thuật và nội khoa, bệnh nhân hết triệu chứng và đặc biệt kết quả của xét nghiệm IHAT với hiệu giá kháng thể 1/16. Bàn luận Nhiều ca bệnh sán lá gan lớn ở người không có triệu chứng, nhưng khi xuất hiện triệu chứng có thể chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn ấu trùng di chuyển hay còn gọi là phase cấp và pha liên quan đến sán trưởng thành hay pha mạn tính. Hai tuần sau khi nhiễm, suốt quá trình xâm nhập vào bao gan Glisson với một số ấu trùng metacercariae, khối máu tụ dưới bao gan xuất huyết trong khoang phúc mạc có thể xảy ra, trong trường hợp nhiễm nặng, xuất huyết có thể nhiều và có thể dẫn đến sốc đòi hỏi phải mổ ổ bụng cấp cứu. Trong pha cấp, bệnh nhân thường van đau đầu, chán ăn, buòn nôn, nôn mửa, ngứa, đau hạ sườn phải và sốt cao kmè theo có vết gan to, nổi mày đay và tăng bạch cầu ái toan. Giai đoạn này óc thể tồn tại 3-4 tháng. Trong pha mạn tính, vì kích thước của sán trưởng thành liên quan đến đường mật, thậm chí khi nhiễm nhẹ cũng có thể gây ra các ccơn đau colic. Vào giai đoạn này, bệnh nhân có dấu hiệu đau hạ sườn phải, vàng da tắc nghẽn, sốt, run lạnh, phản ứng đau vùng gan, tăng bạch cầu ái toan, chức năng gan bất thường. Trong giai đoạn này, thiếu máu là một bằng chứng và dấu hiệu tốc độ lắng máu thường tăng. Trong quá trình pha cấp xâm nhập, một số metacercariae không đi đến gan. Bẹnh sán lá gan lạc chỗ (ectopic fascioliasis) thường biểu hiện như một dấu hiệu đau các nốt dưới da di chuyển (painful migratory subcutaneous nodules), điều này có thể chẩn đoán nhầm hay sai lệch với dạng nang bã nhờn nhiễm trùng, các tổn thương như thế đã được tìm thấy trong dạ dày, manh tràng, ruột thừa, tụy, lách, não, phổi, màng phổi, tim, màng tinh hoàn, hốc mắt. Việc chẩn đoán được nghi ngờ nhờ vào các hình ảnh chẩn đoán lâm sàng của bệnh lý đường mật có kèm tăng bạch cầu ái toan. Nó được xác định dựa vào hình ảnh trứng trong phân. Hầu hết các ca có thể chẩn đoán bằng phương pháp huyết thanh học và đối chiếu với các thử nghiệm huyết thanh khác óc giá trị đáng kể trong nhiều trường hợp. Phát hiện kháng thể huỳnh quan miễn dịch đặc biệt cho thấy tăng hiệu giá kháng thể. Trong một nghiên cứu, chẩn đoán dựa trên việc phát hiện kháng thể bằng kỹ thuật IHAT trên các bệnh nhân xét nghiệm phân tìm trứng âm tính. X-quang có thể đóng vai trò trong chẩn đoán, CT chỉ ra các hình ảnh ngoại vi, đôi khi hình liềm và viền bờ trong gan do hiện tượng ấu trùng di chuyển. Gần đây có một báo cáo liên quan chẩn đoán cộng hưởng từ (MRI) tren các ca bệnh sán lá gan lớn ở người, cho biét với MRI đã cho các hình ảnh thay đổi khác với viêm gan tổn thương gây ra do giun di chuyển trong gan và các thay đổi này có thể giúp chẩn đoán ca bệnh sán lá gan. Sinh thiết gan chỉ ra hình ảnh thâm nhiễm vùng tĩnh mạch cửa với các mô bào, bạch cầu ái toan,bạch cầu đa nhân. Các u hạt ở gan và trứng sán trong gan đôi khi được phát hiện. Bithionol liều 30-50 mg/kg là thuốc lựa chọn điều trị. Triclabendazole là một thuốc đặc hiệu chống lại sán lá gan lớn, liều duy nhất 10mg/kg loại bỏ nhiễm sán khoảng 75-100% trong số các ca. Khi dùng đến liều thứ 2 thì hầu như các ca đều được loại bỏ. Nghiên cứu ở đây đã không mới nhưng rất lạ vì hình ảnh lam sàng cũng như cận lâm sàng trước đó không điển hình cho một ca bệnh sán lá gan. Nghiên cứu ca bệnh này dựa trên các tài liệu y học, thông tin trên medline và các tài liệu y văn khác, chưa thấy đề cập đến ca bệnh tương tự nhự thế. Hiếm khi gặp hình ảnh u hạt hoại tử trong một tổ chức gan trước khi điều trị như vậy, khiến cho thầy thuốc lâm sàng càng thêm khó chẩn đoán. Các tác giả Iran báo cáo ca bệnh abces gan ở người ở trên với chẩn đoán dựa trên siêu âm và CT, xét nghiệm huyết thanh IHAT dương tính với sán lá gan lớn sau khi các xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán khác đều không thấy rõ, tương ứng với các xét nghiệm về mặt mô học của bệnh sán lá gan lớn. Điều trị bệnh nhân bằng phẩu thuật và cho uống thuốc triclabendazole thành công và kết quả IHAT âm tính sau điều trị 6 tháng. Chúng tôi kết luận rằng, bệnh sán lá gan là một bệnh lưu hành cao ở các vùng như phía bắc của Iran, nên chẩn đoán với ca sán lá gan lớn cần được đưa ra để chẩn đoán phân biệt, khi ổ abces quá lớn và không điển hình như trong ca bệnh này.
|