Giới thiệu
Hội chứng ấu trùng di chuyển (Cutaneous larva migrans_CLM) là một vấn đề bệnh lý da mắc phải hay gặp ở các vùng nhiệt đới sớm được mô tả hơn 100 năm qua. CLM có đặc điểm là các đường vằn vèo, ban đỏ, ngứa, nổi mụn nước nếu có viêm dưới da tại chỗ. Hội chứng gây ra do ấu trùng của một số loài giun tròn khác nhau đi xuyên da hoặc đi trong da và làm hư hại cấu trúc bì CLM. Về mặt sinh lý bệnh CLM, ký sinh trùng có chu kỳ bắt đầu kể từ khi trứng ra khỏi phân của động vật đi vào vùng đất ẩm ướt, đá sỏi, nơi đó ấu trùng dính vào. Chúng ăn và trải qua thời gian để thành ấu trùng giia đoạn nhiễm (giai đoạn 3). Bằng cách sử dụng các protease của chúng, ấu trùng xuyên da qua các nang trên da, vết nứt kẻ da hoặc tiếp xúc với da của vật chủ. Sau khi xuyên da, ấu trùng sinh ra lớp cuticle tự nhiên. Thường chúng di chuyển trong vài ngày. Trong các vật chủ động vật trong tự nhiên, ấu trùng có thể xuyên qua lớp bì và chuyển thông qua hệ lympho và tĩnh mạch đến phổi. Chúng có thể đến các phế nang và di chuyển đến khí quản - ở đó chúng được nuốt bởi vật chủ, trong ruột chúng sẽ trưởng thành và hoàn thành chu kỳ như ban đầu. Người chỉ là vật chủ tình cờ và ấu trùng được tin là thiếu enzyme collagenase đòi hỏi cho xuyên màng đáy để xâm nhập vào lớp da. Do vậy, hội chứng CLM vẫn giới hạn đối với da khi con người bị nhiễm, nghĩa là rất hiếm. |  | |
Sau tắm nắng, biểu hiện ban đỏ, vệt rắn bò ở gót chân trái | Ấu trùng di chuyển (CLM) ở ngón tay cái bên (P) | Ấu trùng di chuyển (CLM) ở vùng đùi bên (T) |
Các ca bệnh trình bày dưới đây trích từ phiên bản tổng hợp y văn 16.2:tháng 5.2008 cho biết một số ca bệnh ban trườn do ký sinh trùng gây nên. Hiện tượng ấu trùng di chuyển dưới da là một điển hình gây ra bởi ấu trùng giai đoạn nhiễm của giun móc chó hoặc mèo, Ancylostoma braziliense. Nó cũng có thể gây ra bởi các loại giun móc của động vật khác thuộc họ Ancylostomidae. Ký sinh trùng đi xuyên qua và di chuyển trong da người, tạo ra các phản ứng viêm dọc theo đường đi dưới da (cutaneous tract). Trong quá trình di chuyển có thể cơ quan phổi có thể liên quan đến hội chứng này.
Nhiễm ký sinh trùng (KST) xảy ra khi da tiếp xúc với đất chưa ấu trùng gai đoạn nhiễm. Ấu trùng dính vào trong đất sau khi trứng từ phân chó mèo thải ra ngoài môi trường. đất nhiễm KST đầu tiên tìm thấy trong diều kiện thời tiết ấm ẩm như tại các quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới hoặc các quốc gia và vùng lãnh thổ phía nam của Mỹ. Tại các vùng này, ấu trùng thường được tìm thấy trên các biển, trong các hộp đựng cát.
Những đối tượng có nguy cơ cao nhất gồm người đi du lịch, trẻ em, người đi bơi lội và người dân lao động có những hoạt động dễ có điều kiện phơi nhiễm hoặc tiếp xúc giữa da của họ với đất bị ô nhiễm. Ấu trùng di chuyển trong da là nguyên nhân thường gặp của bệnh lý da trong số nhứng người đi du lịch từ các quốc gia hoặc vùng lưu hành bệnh trở về. Trong một loạt người Anh đi du lịch họ thường nhiễm phải ở châu Phi, Đông Nam Á, vùng Caribbe và ít hơn là ở Trung và Nam Mỹ. Các tổn thương da là một lý do thường gặp trên các đối tượng đi du lịch trở về và phát hiện qua khám sức khỏe. Trong số 2.131 người du lịch trở về từ các vùng lưu hành sốt rét đến khám tại khu vực bệnh nhân ngoại trú (outpatient clinic) ở Đức, tiêu chảy là nguyên nhân hay gặp nhất (71%), theo sau là bệnh lý da 313 (15%). Trong một nghiên cứu đánh giá điều tra trên người du lịch Thụy Sĩ, 2.9% trong số 772 bệnh nhân có vấn đề sức khỏe ban ở da liên quan đến du lịch. Trong số 17.353 người đau được đánh giá ở 1 trong 30 điểm y tế nhiệt đới hoặc đặc biệt vùng địa lýtại 6 lục địa, các rối loạn về da là vấn đề đứng thứ 3 (sau nguyên nhân tiêu chảy và sốt cấp). Trong một nghiên cứu khác theo dữ liệu mạng lưới GeoSentinel network (từ tháng 1.1997 đến tháng 2.2006), chẩn đoán liên quan đến da được báo cáo trên 18% số bệnh nhân du lịch trở về.
Các tổn thương da trên những người đi du lịch có thể hữu ích trong việc gợi ý các bệnh hệ thống hoặc tại chỗ. Các nguyên nhân và đặc điểm lâm sàng của tổn thương da trên đối tượng dâ di cư hoặc cư trú trong một thời gian dài tại các vùng nhiệt đới trùng lắp (overlap) với một số vấn đề khác từ người đi du lịch trở về nhưng thường phân biệt các hướng quan trọng để loại trừ đối với các đối tượng du khách trong thời gian ngắn. Nguyên nhân và sự nhận ra cũng như chẩn đoán tổn thương da sẽ được tổng hợp dưới đây, qua một nghiên cứu tiến cứu trên 269 bệnh nhân ở Paris có các vấn đề ở da liên quan đến du lịch tìm thấy trong hầu khắp các chẩn đoán: hội chứng ấu trùng di chuyển: 25%; viêm da có mủ: 18%; viêm da phản ứng với động vật chân khớp: 10%; bệnh dòi: 9%, Tungiasis: 6%; mày đay: 5%; sốt và phát ban: 4%; bệnh leishmania thể da niêm:3% và 61% số bệnh nhân này có tổn thương da bắt đầu trong thời gian họ đi nước ngoài du lịch.
Đặc điểm trên da là các hình ảnh ban trường vằn vèo thường gặp nhất ở vùng chi dưới. Trong một báo cáo 98 người đi du lịch, các tổn thương hầu hết có liên quan đến chi dưới (73%), với hình ảnh tại vùng mông, vùng hậu môn sinh dục, vùng thân mình và chi trên liên quan lần lượt 13%, 7% và 7%. Các khám nghiệm tương tự được chú ý trên loạt ca bệnh ở Anh có tổn thương hay gặp nhất là trên bàn chân (39%), mông (18%), bụng (16%). Ban đỏ có ngứa nổi bọng nước khởi đầu ở vùng ấu trùng đầu tiên đi vào. Với phơi nhiễm với đất nhiều lần và nặng, có thể xuất hiện hàng trăm nốt sần, mẩn đỏ với sự xuyên ấu trùng lan rộng. 2-3 ngày sau đó và tại thời điểm một tuần sau đó, vết ngứa nghiêm trọng hơn, tăng lên, dấu ngằn nghoèo, tổn thương màu nâu-đỏ do ấu trùng di chuyển với tỷ lệ vài mm mỗi ngày. Các tổn thương này là đặc điểm chính của hội chứng ấu trùng di chuyển (cutaneous larva migrans) dưới da. Các tổn thương cũng có thể chuyển thành các bọng nước có vỏ và có thể nhiễm trùng thứ phát. Ấu trùng cuối cùng chết và tự hấp thu mà có thể không cần điều trị. Tại Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, thời gian từ năm 2004 - 2009, khoảng ít nhất 30 trường hợp điển hình có hội chứng ấu trùng di chuyển hoặc ký sinh trùng trưởng thành di chuyển dưới cấu trúc da niêm (cutaneous larva migrans) là một biểu hiện hay gặp ở da niêm trong các bệnh vùng nhiệt đới. Điểm đặc biệt khác ở đây là các bênh nhân này không liên quan đến vấn đề du lịch vì bản thân họ đã từng sống và làm việc trong các vùng có lưu hành bệnh. Triệu chứng biểu hiện cũng tương tự như các ca bệnh đề cập ở trên: ban đỏ (erythematous), hình dạng vằn vèo (serpiginous), ngứa (pruritic), phát ban dưới da (cutaneous eruption) liên quan đến giai đoạn ấu trùng đi xuyên qua cấu trúc da và một số loài ký sinh trùng (có thể giai đoạn trưởng thành) khác xuyên qua hoặc di chuyển dưới da. Thật khó để phân biệt hội chứng ban trườn ('Creeping Eruption') và Hội chứng ấu trùng di chuyển trong da (Syndrome 'Cutaneous Larva Migrans')
Tóm lược một số ca bệnh có hội chứng ban trườn hoặc hội chứng ấu trùng di chuyển
Ca bệnh thứ 1
Một phụ nữ 50 tuổi có triệu chứng phát ban ngứa trên thành bụng phía trước đã 2 tuần nay. Bệnh nhân là một nhân viên làm nông trang, thường làm nhiều giờ trên cánh đồng và cô ta cũng thường chăm sóc và cưng chiều chó và mèo tại nhà. Không có tiền sử sốt, ho, khó thở, hoặc bất cứ vấn đề nào về bụng và bàng quang. Cô ta được điều trị bằng kháng sinh tiêm và thuốc kháng histamine, bệnh không thuyên giảm. Khám da niêm cho thấy có dạng ban vằn vèo, màu hồng, nổi lên mặt da kỳ lạ, ban phát lên giống như hình con rắn uốn lượn (serpentine-like eruptions) với hình dạng móc, ròng rọc, hoặc đường xoắn vặng (loops, tortuous path), khoảng 35cm trên bụng bệnh nhân, kéo dài tùe vùng hạ vị bên phải và tiến dần về phía hạ sườn phải. Có cảm giác nóng ở cuối vùng tổn thương.
Xét nghiệm các thông số cơ bản đều cho kết quả bình thường. Sinh thiết không được thực hiện vì ít có giá trị trong trường hợp này. Dựa vào bệnh sử và dữ liệu lâm sàng, một chẩn đoán nghĩ nhiều đến là hội chứng ấu trùng di chuyển. Điều trị bằng ivermectin (200 µg/kg cân nặng) được chỉ định và bệnh nhân giảm triệu chứng sau 1 tuần.
Hội chứng ấu trùng di chuyển được biết như là do các giun truyền qua đất, hoặc còn gọi là viêm da do giun có dáu ban trườn (creeping verminous dermatitis), hoặc có tác giả gọi là hội chứng ban trườn chung chung (creeping eruption), ngứa plumber's (plumber's itch) hoặc ngứa ở người chăn vịt. Nhiều loại vi trùng có liên quan đến hội chứng ban trườn bao gồm giun móc chó Ankylostoma caninum, A. ceylonicum và A. braziliense, Uncinaria stenocephala, Bubostomum phlebotomum, giun đầu gai Gnathostoma spp., giun chỉ ở mắt Dirofilaria conjunctivae, giun xoắn Capillaria spp., Anatrichostoma cutaneum, giun lươn Strongyloides stercoralis, Dirofilaria repens, sán nhái Spirometra spp., Gastrophilus spp., Hypoderma spp., …
Thể thông thường nhất của hội chứng ấu trùng di chuyển xảy ra khi ấu trùng của giun móc chó, mèo (Ankylostoma caninum và A. braziliense) tiếp giáp và xuyên da, qua lớp thượng bì. Vị trí hay gặp nhất là bàn chân, mặc dù các vị trí khác bao gồm vùng mông, lưng, đùi cũng có thể nhiễm và giun sán rất ưa ký sinh tại đó. Các vị trí liên quan không thường gặp do ấu trùng di chuyển cũng đã được thông báo như thành trước bụng, niêm mạc miệng ở trẻ em. Do thiếu các enzyme cần thiết để cho chúng xuyên qua và có thể sống sót ở sâu trong da, nên ấu trùng lang thang một đường vằn vèo với tốc độ 3 cm mỗi ngày. Về mặt lâm sàng, tổn thương ban đầu có ngứa, ban đỏ, đường hầm vằn vèo dưới ban đỏ đó. Mặc dù ấu trùng có chết thường trong thời gian 2 - 8 tuần, song có thể sống sót đến 2 năm theo một số báo cáo y văn. Thời gian ủ bệnh từ 1 - 6 ngày. Ban trườn là một bệnh da có thể tự giới hạn (self-limited dermatosis), nhiễm khuẩn thứ phát và tỏn thương gây chàm hóa là những biến chứng tiềm tàng. Các tổn thương hoặc triệu chứng liên quan có thể khò khè, ho khan và nổi mày đay. Ấu trùng A. caninum có thể di chuyển đến ruột non và dẫn đến một bệnh lý khác gọi là viêm ruột tăng bạch cầu ái toan (eosinophilic enteritis). Tăng bạch cầu ái toan thoáng qua cũng được mô tả, sinh thiết không có giá trị vì ấu trùng đã biểu hiện lâm sàng thấy rõ. Soi dưới kính hiển vi soi da phát quang (Epiluminescence microscopy) là một phương pháp chẩn đoán không xâm nhập hiệu quả để phát hiện ấu trùng và xác định chẩn đoán.
Tổn thương biến mất trong 2-8 tuần nhưng hiếm khi có thể tồn tại đến 2 năm. Liệu pháp áp lạnh có đường dẫn theo đường hầm là một biện pháp điều trị hiệu quả, điều này đôi khi xảy ra tổn thương phá hủy mô đáng kể. Ấu trùng có đầu dài 2cm, đào hầm có thể nhìn thấy được, do đó, nếu điều trị vùng không đúng chính xác sẽ dẫn đến thất bại điều trị.
Thuốc lựa chọn điều trị là Ivermectin (liều duy nhất 200µg/kg). Thuốc Albendazole (400 mg mỗi ngày trong 3 ngày) cũng cho hiệu quả. Một phác đồ thay thế lựa chọn điều trị là dùng thoa ngoài bằng nhũ dịch thoa thiabendazole 10%, 4 lần mỗi ngày trong ít nhất 2 ngày sau khi có xuất hiện dấu hiệu đường hầm. Phương pháp này có hiệu quả, ít độc tính. Hiếm khi ca nào điều trị bằng Thiobendazole đường uống.
Ca bệnh thứ 2
Bệnh nhân cũng là một phụ nữ 38 tuổi, sinh ra và lớn lên tại xã Bình Trung, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, hiện đang sống và làm việc tại thành phố Vũng Tàu nhiều năm nay, thỉnh thoảng có về thăm họ hàng tại Quảng Ngãi. Khoảng tuần nay cảm giác hơi nóng vùng bụng dưới và quanh rốn, không sốt, không ngứa, không rối loạn tiêu hóa, đi siêu âm và xét nghiệm một số thông số khác không thấy bất thường, qua một tuần không thấy biểu hiện gì lạ nên không để ý đến. Mãi sau 15 ngày kể từ ngày siêu âm về, trên cơ thẳng bụng bệnh nhân thấy xuất hiện một vệt đỏ, nổi gờ lên, chiều tối nổi lên nhiều lần hơn buổi sáng và trưa, sau khi tắm vào lau mình xong lại thấy ngứa nhiều hơn lúc chưa tắm và vệt ghồ lên rõ hơn, kèm theo ngứa vùng mặt trong đùi, mạng sườn 2 bên (không ngứa tại vết thương tổn), ăn uống bình thường, bóp vết gờ lên không đau, mềm, sau 24 giờ bênh nhân thấy rõ một vệt dài khoảng 6 cm, rộng khoảng 1cm chạy từ trên xuống dưới, song song với rốn, xung quanh vết này da đều bình thường không nổi bóng nước, hoặc quầng đỏ gì cả. Bệnh nhân đi khám chuyên khoa da liễu (không rõ bệnh) chuyển đến Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn. Sau khi tiếp nhận, khám và chẩn đoán sơ bộ là ký sinh trùng lạc chỗ và chẩn đoán phân biệt với hội chứng ban trườn hay hội chứng ấu trùng di chuyển.
Xét nghiệm công thức máu toàn phần có số bạch cầu chung tăng nhẹ, bạch cầu ái toan tăng > 12%, không thiếu máu. ELISA 5 loại giun sán (sán lá gan lớn, giun lươn, giun đầu gai, giun đũa chó/mèo, ấu trùng sán lợn) cho kết quả âm tính, ngoại trừ sán lá gan lớn (+) 1/6400. Tiến hành siêu âm kiểm tra tổng quát không phát hiện tổn thương bất kỳ nơi nào, nhất là gan mật. cho điều trị thuốc đặc hiệu Triclabendazole liều 12mg/kg liều duy nhất và thuốc chống viêm, kháng histamine. Sau 4 ngày điều trị vết di chuyển giảm dần nhưng chưa mất, đến ngày thứ 7 không còn nhìn thấy vết di chuyển và đường viêm trên vùng cơ thẳng bụng. Sau 3 tháng, kiểm tra tổng thể đều cho kết quả bình thường (Eosin 3% và ELISA: 1/1600), phản ứng viêm không còn, abces cơ thẳng bụng biến mất và không còn tính chất viêm (qua hình ảnh siêu âm và công thức máu).
Ca bênh này đặc biệt ở chỗ là ca bệnh nhiễm sán lá gan lớn Fassciola gigantica (chứ không phải giun móc cũng không phải giun tròn thông thường), hiếm được báo cáo trên y văn, đến giờ này cũng khó phân định rằng đây là hội chứng di chuyển do KST hay tình trạng KST sán lá lạc chỗ (ectopic foci)? Vì định nghĩa áp dụng vào đều có thể giải thích cho ca bệnh ở đây.
Ca bệnh thứ 3: biểu hiện ban trườn trên một cánh tay (P) do ấu trùng giun lươn
Bệnh nhân là một nam sinh viên cao đẳng 22 tuổi, quên quán Eaphe, Krong Pak, Đăk Lăk xuất hiện ngứa từng đợt đã 5 tháng nay, kèm theo ngứa có rối loạn tiêu hóa (đi phân lúc đặc, lỏng, lúc sệt) diễn ra liên tục, đau và khó chịu tại vùng thượng vị, khó tiêu và cảm giác khó chịu khoảng 2 giwof/ mỗi ngày và đặc biệt không đáp ứng với liệu pháp điều trị viêm đại tràng kích thích. Vị trí ngứa và biểu hiện các vết ngoằn nghoèo dài khoảng 6 - 8cm, các vệt này màu đỏ, phản ứng viêm 2 bên của vết chạy, duy nhất chỉ xuất hiện trên canhs và cẳng tay bên phải. Mỗi khi trời chập tối hoặc sau khi tắm vào thì bệnh nhân xuất hiện ngứa và vết nổi rõ hơn trên bề mặt da. Nhiều lần đi khám da liễu dùng các thuốc điều trị trị không rõ loại không đỡ.
Tiền sử xung quanh nhà có 2 người mắc bệnh tương tự. Khi bệnh nhân đến khám tại Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn vào khoảng 10h30 sáng (ngày 24.05.2010) không thấy biểu hiện ban trườn hay hội chứng ấu trùng di chuyển, hoặc ngứa. Sau khi khai thác tiền sử và bệnh sử, chẩn đoán ban đầu sơ bộ là Hội chứng ban trườn nghi do ký sinh trùng. Chỉ định làm xét nghiệm máu tổng thể. Kết quả xét nghiệm có lúc 4h30 chiều cùng ngày cho thấy:
-CTM toàn phần: bạch cầu tăng nhẹ, bạch cầu ái toan trong giới hạn cho phép;
-Men gan, chức nặng thận trong giới hạn
-Siêu âm tổng quát không phát hiện gì bất thường
-ELISA giun lươn (+): 1/1600, ELISA giun đầu gai, giun đũa chó, ấu trùng sán lợn (-)
Đến 19 giờ trên cánh tay và cẳng tay (P) xuất hiện 12 vết ban trườn rất rõ, có vết mờ, vết nhạt, ngứa dữ dội và khó chịu. Chỉ định thuốc điều trị bằng Ivermectine + Albendazole (liều thấp), cùng kháng histamine + chống viêm trong 3 ngày. Sau năm ngày kể từ ngày uống thuốc bệnh nhân chỉ còn xuất hiện vài vết ban trườn và khoảng cách thưa hơn, ngứa cũng giảm đi rất nhiều. hiện bênh nhân vẫn đang tiếp tục theo dõi và theo lịch tái khám sau 1 tháng.
Đây có lẽ là ca bệnh khá đặc biệt vì bản thân giun lươn chứ không phải giun móc sinh ra hội chứng ban trườn như trên.
Ca bệnh thứ 4: đặc biệt với một ca bệnh có hội chứng rõ ràng
Hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da (Cutaneous larva migrans_LM) hoặc hội chứng ban trườn (Creeping eruption_CE) là một hình thái phát ban có viêm dưới cấu trúc da gây ra bởi giun móc hoặc giun tròn như giun móc chó Ankylostoma brasiliensis , A. caninum , A. ceylonicum , Uncinaria stenocephala và Bubostomum phlebotomum. Hiếm khi gây ra bởi giun lươn Strongyloides stercoralis , Dirofilaria spp., Spirometra spp., Gnathostoma spp. và giun chỉ Loa Loa. Các giun tròn này thường không ký sinh trên da người. Tuy nhiên, các thể ấu trùng giai đoạn nhiễm của giun móc chó, mèo có thể nhiễm tình cơ qua vết vào của da và rồi lang thang trong vùng biểu bì. Hình ảnh lâm sàng của tình trạng tình cờ này hiếm được chú ý.
Bệnh nhân là một người đàn ông 38 tuổi có biểu hiện phát ban đỏ ngứa dữ dội trên cả 2 chân và trên tay trái trong 6 tháng qua. Anh ta là một ngư dân và thường trải qua nhiều giờ trên sông. Không có tiền sử tổn thương tại chỗ, sốt hoặc ho và không có thú cưng. Các thành viên khác trong gia đình không có ai biểu hiện bệnh như thế cả. Khám lâm sàng cho thấy phát ban trườn đỏ cả hai bên và đối xứng ở cả 2 chân. Có những vết đỏ ngoằn nghoèo, xoắn vặn như hình con rắn rất kỳ quái, kéo dài từ mặt trên của chân đến đầu gối cả 2 bên. Các đường tương tự cũng phát hiện ở tay trái. Các nốt sấn dạng chàm rải rác (scattered eczematous papules) và có hiện tượng lột da (excoriations) do vết xướt trầy cũng được phát hiện. Xét nghiệm cận lâm sàng cơ bản đều bình thường, ngoại trừ số bạch cầu ái toan tăng cao. Một chẩn đoán hội chứng ấu trùng di chuyển lan rộng (extensive LM) được đưa ra dựa vào tiền sử và đặc điểm điển hình. Khi sinh thiết đường tổn thương trên da không biểu hiện giống như ấu trùng và khó có thể tìm thấy gì đặc trưng. Một liều Ivermectin 200 µg/kg các dấu hiệu lâm sàng cải thiện một phần sau đó 3 tháng.
Mặc dù thể ấu trùng của CE có tỷ lệ di chuyển từ vài mm đến 3cm mỗi ngày và bệnh có thể tự giới hạn và tự khỏi, song các liên quan khác có thể nhìn thấy song bị lãng quên giống như ca bệnh như thế này. Một số lượng lớn ấu trùng có thể hoạt động một lúc, hình thành nên một loạt các đường không thẳng hàng, vòng vèo. Các thể hay các dạng không hay gặp của LM đã được báo cáo bởi các tác giả Ấn Độ trước đây. Hình ảnh ban đỏ trườn đối xứng 2 bên trên chân là một hình ảnh thú vị trong ca bệnh này, có lẽ rất đặc biệt hiếm gặp trong y văn.
Luận bàn về chẩn đoán và xử trí khi gặp các trường hợp như thế
-Biểu hiện triệu chứng trong hội chứng ban trườn không phải lúc nào cũng giúp các thầy thuốc nhận định được ngay mà đôi khi cần chờ đến thời gian (tốt nhất các bệnh nhân như thế nên cho nhập viện tối thiểu) để theo dõi và phát hiện triệu chứng đặc trưng;
-Chẩn đoán nên dựa vào cả kết quả thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng, nhất là công thức bạch cầu và huyết thanh chẩn đoán. Không phải lúc nào xét nghiệm huyết thanh cũng đúng, đôi khi kết quả trái chiếu vẫn chỉ định điều trị thử, đôi khi cần thiết;
-Cần thanh lọc các tác nhân KST thương gặp và loại bỏ các tác nhân không có hay ít gặp trong vùng lưu hành;
-Thuật ngữ chẩn đoán có thể đồng nghĩa giữa 2 khái niệm và thuật ngữ trên;
-Nhiều thuật ngữ được sử dụng xem như đồng nghĩa là: ACLM (Ancylostoma cutan larva migran), ACLM (Ancylostomal cutaneous larva migrans), Rối loạn dạng ACLM (Ancylostomal cutaneous larva migrans), CLM (Cutaneous larva migrans), ngứa cu li (coolie itch), ban trườn (Creeping eruption), ngứa ở người chăn vịt (Duckhunter's itch), skin creeping eruption (dánh cho giun móc), Ground itch, viêm có tiết túi dịch dưới da do giun móc (Hookworm cutaneous vesicle), Plumber's itch, giun cát (Sandworm), Uncinarial dermatitis;
-Về thái độ xử trí: tương tự như các bệnh nhiễm ký sinh trùng ở da niêm (thuốc đặc hiệu, chống viêm, kháng histamine).
Nói tóm lại, về mặt lâm sàng, chúng ta cần lưu ý:
Tiền sử
·Cảm giác ngứa ran ở vị trí phơi nhiễm hoặc tiếp xúc trong vòng 30 phút ấu trùng xuyên qua, mặc dù Archer mô tả một ca khởi bệnh muộn hơn ở thể CLM.
·Ngứa dữ dội;
·Ban đỏ vệt dài, thường tổn thương dạng đường vòng vèo chạy;
·Thường liên quan đến tiến sử tắm nắng, đi chân đất trên biển hoặc hoạt động trong vùng nhiệt đới;
·Khuynh hướng dễ mắc các bệnh lý ấu trùng xuyên da, bao gồm:
oThói quen và nghề nghiệp liên quan đến tiếp xúc với đất ẩm, cát sỏi;
oDu lịch đến các vùng óc thời tiết khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới;
oTắm nắng/ đi chân trần trên bờ biển;
oTrẻ em chơi nghịch với các thùng hộp đựng cát;
oThợ mộc;
oThợ điện;
oThợ sữa ống nước (Plumber)
oNông dân
oNgười làm vườn
oNgười tiêu hủy động vật, thú cưng
Khám thực thể
·Dấu hiệu vùng da niêm của hội chứng CLM gồm:
oNgứa, ban đỏ, nốt sẩn bóng nước, bọng nước;
oDấu ngoằn nghoèo như con rắn, nhấp nho nhẹ, đường hầm đỏ rộng khoảng 2-3mm và vết dài 3 - 4 cm từ vị trí xuyên da;
oViêm da không đặc hiệu;
oTúi bọng nước với dịch huyết thanh;
oTạo chốc hóa thứ phát;
oVết đỏ kéo dài 1-2 cm/ngày
·Các dấu chứng toàn thân, bao gồm: tăng bạch cầu ái toan máu ngoại vi (hội chứng Loeffler), thâm nhiễm phổi do ấu trùng di chuyển và tăng immunoglobulin E (IgE) nhưng hiếm khi;
·Các thương tổn điển hình phân bố ở phần chi xa, ở dưới, gồm bàn chân và khaongr giữa các ngón chân nhưng có thể xảy ra ở vùng hậu môn sinh dục, mông, tay và gối.
Nguyên nhân
·Các nguyên nhân hay gặp với hội chứng ký sinh trùng di chuyển là:
oAncylostoma braziliense (giun móc trên các động vật hoang dại và vật nuôi như mèo, chó) là nguyên nhân hay gặp nhất. nó có thể phát hiện ở vùng nam của Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ và vùng Caribbe.
oAncylostoma caninum (giun móc của chó), hay gặp ở Australia.
oUncinaria stenocephala (giun móc chó), thấy ở châu Âu;
oBunostomum phlebotomum (giun móc gia súc)
·Các bệnh nguyên hiếm gặp hơn:
oAncylostoma ceylonicum
oAncylostoma tubaeforme (giun móc ở mèo)
oNecator americanus (giun móc ở người)
oStrongyloides papillosus (KST ở cừu, dê, gia súc)
oStrongyloides westeri (KST của ngựa)
oAncylostoma duodenale
oPelodera (Rhabditis) strongyloides
Tài liệu tham khảo
1.Caumes E, Carriere J, Datry A et al. A randomized trial of ivermectin versus Albendazole for treatment of cutaneous larva migrans. Am J Trop Med Hyg 1993; 49: 641-4.
2.Davis CM, Israel RM. Treatment of creeping eruption
3.Eisher E, Themes M, Worret WI. Cutaneous Larva Migrans detected by epiluminescent microscopy. Acta Derm Venereol 1997; 77:487-8
4.Kartikeyan K, Thappa DM, Jeevankumar B. Cutaneous larva migrans of the penis. Sex Transm Infect 2003; 79:500.
5.Masuria BL, Batra A, Kothiwala RK, Khuller R, Singhi MK. Creeping eruption. Indian J Dermatol Venereol Leprol 1999; 65:51
6.Mehta V, Shenoi D. Extensive larva migrans. Indian J Dermatol Venereol Leprol 2004;70:373-4.
7.Padmavathy L, Rao LL. Cutaneous larva migrans: A case report. Indian J Med Microbiol 2005;23:135-6.
8.Vega-Lopez F, Hay RJ. Parasitic worms and protozoa. In : Burns T, Breathnach S, Cox N, Griffiths C, editors. Rook's textbook of dermatology. 7 th ed. Oxford Blackwell: 2004. p. 32.1-32.47
9.Differential Diagnosis For Creeping eruption syndrome. http://en.diagnosispro.com/
10.http://www.koreamed.org
11.http://emedicine.medscape.com
12.Các hình ảnh minh họa trích từ các trang website ở internet