Thông thường nói đến ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc là nói đến chủng loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum kháng lại với thuốc điều trị. Hiện tượng ký sinh trùng sốt rét hiện nay đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam; đây là một trong những khó khăn kỹ thuật lớn nhất làm ảnh hưởng đến các chương trình phòng chống sốt rét trên toàn cầu. Vậy tại sao ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc?
Cơ chế kháng thuốc
Tình hình ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc có sự biến đổi theo thời gian và không gian do sự phân bố của các chủng loại ký sinh trùng sốt rét và khả năng phòng chống bệnh ở mỗi thời điểm, mỗi khu vực, mỗi quốc gia khác nhau. Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc có thể do cơ chế kháng không di truyền hoặc kháng di truyền.
Cơ chế kháng không di truyền do khả năng thích nghi sinh lý, sinh hóa của ký sinh trùng sốt rét. Kiểu kháng thuốc này không bền vững, khi dừng tác động áp lực thuốc thì khả năng kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét cũng mất theo.
Cơ chế kháng di truyền gồm kháng tự nhiên và kháng thu nhận được hay còn gọi là kháng mắc phải:
- Kháng tự nhiên là tình trạng kháng xuất hiện trước khi có tác động của áp lực thuốc. Nguyên nhân có thể do biến dị tự nhiên gen của ký sinh trùng sốt rét đến khi có tác động của áp lực thuốc thì được lựa chọn.
- Kháng thu nhận được hay kháng mắc phải là tình trạng kháng chéo của ký sinh trùng sốt rét với các nhóm thuốc sốt rét, có nghĩa là ký sinh trùng sốt rét không những kháng một loại thuốc mà còn kháng chéo sang một loại thuốc sốt rét khác có thể cùng nhóm thuốc hoặc khác nhóm thuốc. Nguyên nhân có thể do các loại thuốc sốt rét cùng tác động vào một khâu hoặc một chuỗi chuyển hóa của ký sinh trùng sốt rét. Kháng di truyền của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum là một đặc tính kháng được di truyền từ bố hoặc mẹ sang thế hệ con cái. Nguyên nhân có thể do gen của ký sinh trùng sốt rét dưới tác động của áp lực thuốc điều trị hoặc trong quá trình sinh sản và phát triển bị đột biến gây ra được di truyền từ một trong hai giao tử của bố hay mẹ. Hiện nay có nhiều giả thuyết cho rằng kháng thu nhận được hay kháng mắc phải có nhiều cơ chế khác nhau như: cơ chế dựa vào ảnh hưởng tác dụng của các loại thuốc sốt rét, cơ chế thiếu hụt nồng độ thuốc trong không bào tiêu hóa, cơ chế ngăn cản thuốc sốt rét thâm nhập vào trong hồng cầu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét, cơ chế kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét như kiểu kháng thuốc của tế bào ung thư... Tuy nhiên cơ chế dựa vào ảnh hưởng tác dụng của các loại thuốc sốt rét đang được nhiều nhà khoa học quan tâm, chú trọng hơn cả.
Nguyên nhân kháng thuốc
Hiện tượng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc có thể do sự hiện diện những quần thể hoặc cá thể ký sinh trùng sốt rét ngẫu nhiên ít nhạy cảm hoặc không nhạy cảm đối với một hay nhiều loại thuốc sốt rét nào đó. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và ghi nhận rằng chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum ở nước Philippines có sự nhạy cảm thấp tự nhiên với loại thuốc amodiaquine; chủng loại ký sinh trùng sốt rét này ở nước Italia, một số nước thuộc khu vực Đông Nam Á lại nhạy cảm thấp với loại thuốc quinine... Tình trạng kháng thuốc là kết quả của sự đột biến và sự chọn lọc tự nhiên của ký sinh trùng sốt rét trên cơ sở di truyền.
Ngoài ra, còn có một số các nguyên nhân quan trọng khác có thể làm cho ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc như dùng thuốc sốt rét để điều trị có liều lượng thấp hơn liều lượng có tác dụng công hiệu; sử dụng thuốc điều trị sốt rét hàng loạt, rộng rãi, không có sự quản lý, kiểm soát; đặc biệt đối với những người chưa có miễn dịch và nhiễm mật độ ký sinh trùng sốt rét cao.
Sự lan truyền kháng thuốc
Chủng loại ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc có thể lan truyền từ nơi này sang nơi khác và phụ thuộc vào yếu tố khác nhau như:
Ở những vùng sốt rét lưu hành nặng, cộng đồng người dân thường đã có đáp ứng miễn dịch sốt rét cao nên tăng khả năng tác dụng của thuốc sốt rét, vì vậy hiện tượng kháng thuốc có thể bị che lấp đi.
Sự di chuyển của bệnh nhân sốt rét và người mang ký sinh trùng lạnh, còn gọi là người lành mang ký sinh trùng sốt rét từ vùng này sang vùng khác sẽ làm cho hiện tượng kháng thuốc lan rộng.
Sự có mặt của loài muỗi truyền bệnh sốt rét có thể tiếp nhận và truyền được chủng loại ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc như muỗi Anopheles dirus là loài muỗi đốt người ngoài nhà nên ở những vùng mà người dân sống du canh, du cư, những người đào đãi vàng, đá quý, khai thác gỗ rừng... là đối tượng thích hợp để loài muỗi này đốt máu và truyền bệnh; đồng thời có khả năng gây nên sự lan truyền mạnh chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum kháng thuốc vì các đối tượng nêu trên có rất ít trường hợp được điều trị chu đáo, đúng nguyên tắc.
Nguyên tắc điều trị kháng thuốc
Để điều trị bệnh nhân bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, phải dùng phác đồ chống kháng. Đồng thời cũng phải căn cứ vào mức độ kháng thuốc và các loại thuốc bệnh nhân đã sử dụng trong các lần điều trị trước.
Cần dựa vào thể trạng của bệnh nhân để lựa chọn phác đồ điều trị bằng loại thuốc sốt rét thích hợp trên cơ sở dược động học của thuốc. Phải có thuốc điều trị thay thế khi có hiện tượng kháng thuốc, có thể thay đổi thuốc sử dụng trong từng thời kỳ, giữa các vùng và nên dành thuốc sốt rét có hiệu lực cao cho vùng sốt rét lưu hành nặng và các bệnh nhân sốt rét ác tính.
Khi áp dụng phác đồ điều trị gồm hai đợt thuốc, cần phải xét nghiệm máu ký sinh trùng sốt rét vào những ngày cuối của đợt một. Nếu còn phát hiện thấy ký sinh trùng sốt rét, phải kéo dài ngày dùng thuốc; không dùng thuốc đợt hai nữa.
Trong quá trình điều trị các trường hợp sốt rét dai dẳng do ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, cần phải thường xuyên theo dõi toàn diện tình trạng của bệnh nhân để kịp thời phát hiện và xử trí những triệu chứng nặng đe dọa ác tính.
Cần tăng cường công tác kiểm tra ký sinh trùng sốt rét ở tất cả bệnh nhân đang điều trị, thực hiện tốt việc điều trị tiệt căn, đủ liều lượng, đúng phác đồ quy định. Không nên áp dụng việc điều trị phỏng chừng với các loại thuốc sốt rét có liều lượng thấp hơn liều quy định thông thường.
Một điều cũng cần chú ý là tuyến y tế cơ sở không nên giữ bệnh nhân để điều trị tiệt căn đối với những trường hợp sốt rét dai dẳng, có mức độ kháng thuốc cao, mật độ ký sinh trùng sốt rét cao vì những bệnh nhân này dễ chuyển sang sốt rét ác tính. Vì vậy cần nhanh chóng chuyển ngay người bệnh lên cơ sở y tế tuyến trên phù hợp, tại đây sẽ có đủ điều kiện, phương tiện để theo dõi và điều trị hiệu quả.