Phòng chống sốt rét ở trẻ nhỏ
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ chưa đầy 12 tháng tuổi là một trong những nhóm bị tổn thương nhất do sốt rét. Trong thời kỳ mang thai nhiễm sốt rét ở người mẹ gây ra trọng lượng trẻ thấp và dẫn đến chết trẻ nhỏ. Ở các vùng sốt rét lưu hành, trẻ nhỏ một lần nữa bị tổn thương do Plasmodium falciparum xấp xỉ 3 tháng tuổi khi miễn dịch mắc phải từ người mẹ bắt đầu hết. Trẻ nhỏ có nguy cơ gia tăng diễn biến bệnh nhanh, sốt rét ác tính và tử vong. Thiếu máu nặng là đặc biệt phổ biến ở nhóm tuổi này. Với sốt rét do P.vivax, được xem như là thể bệnh lành tính cũng có thể là một nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, đặc biệt là trẻ em nhỏ tuổi và trẻ em. Một số nghiên cứu báo cáo rằng có một tỷ lệ cao sốt rét ác tính phơi nhiễm có thể được gây ra bởi P.vivax ở nhóm tuổi này.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo một gói ngăn chặn theo sau cho việc phòng chống sốt rét ở trẻ nhỏ tuổi bao gồm sử dụng màn tẩm hoá chất tồn lưu lâu (LLINs); dự phòng cách quãng cho trẻ nhỏ (IPTi) ở các vùng có sự lan truyền vừa tới cao ở vùng cận Saharan- Châu Phi; chẩn đoán tức thì và điều trị có hiệu quả các trường hợp nhiễm sốt rét. Với bất kỳ bệnh nhân sốt rét là trẻ em nhỏ tuổi khi nghi ngờ sốt rét phải xác định ký sinh trùng để chẩn đoán trước khi điều trị bắt đầu. Liệu pháp kết hợp dựa vào Artemisinin (ACT) là được khuyến cáo trong điều trị sốt rét chưa biến chứng ở trẻ nhỏ. Các dẫn chất artemisinin là an toàn và dung nạp tốt bởi trẻ em vì vậy sự chọn lựa ACT sẽ được xác định phần lớn bởi tính an toàn và dung nạp tốt của các thuốc kết hợp. Hầu hết thuốc kháng sốt rét thiếu công thức trẻ em nhỏ tuổi, điều này có thể dẫn đến liều dùng không chính xác. Bởi vì sức khoẻ của trẻ nhỏ tuổi có thể tồi tệ nhanh chóng, vì thế phải có một ngưỡng thấp cho việc sử dụng liệu trình điều trị bằng đường tiêm truyền. Với các ca sốt rét ác tính khi điều trị bằng đường tiêm truyền không thể cho thì artesunate phải đựơc dùng ở trực tràng và chuyển trẻ nhỏ tới một cơ sở y tế cho việc điều trị bằng tiêm truyền. Một liều đơn của artesunate bằng đường trực tràng như là một điều trị trước khi chuyển làm giảm nguy cơ tử vong.
Sốt rét ở trẻ em dưới 5 tuổi
Trẻ em dưới 5 tuổi là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất do sốt rét. Uớc tính có khoảng 660.000 ca chết do sốt rét trên thế giới vào năm 2010, trong số đó xấp xỉ 86% là trẻ em dưới 5 tuổi. Ở trong các vùng lan truyền cao, miễn dịch phần bộ đối với bệnh mắc phải trong thời kỳ trẻ em. Ởnhững nơi như thế, đa số các ca sốt rét, đặc biệt sốt rét ác tính diễn biến nhanh chóng tới chết người xảy ra ở các trẻ em không có miễn dịch mắc phải. Thiếu máu nặng, hạ đường huyết và sốt rét não là đặc trưng của sốt rét ác tính được tìm thấy phổ biến ở trẻ em hơn người lớn.
WHO khuyến cáo gói ngăn ngừa theo sau cho việc phòng chống và điều trị sốt rét ở trẻ em như sử dụng màn tẩm hóa chất chống muỗi tồn lưu lâu (LLINs); ở các vùng có sự lan truyền theo mùa cao của vùng cận Sahel của Châu Phi, hoá dự phòng sốt rét theo mùa (SMC) cho trẻ em tuổi từ 3 thángđến 59 tháng; ở các vùng có sự lan truyền từ trung bình đến cao ở vùng cận Saharan Châu Phi, dự phòng cách quãng cho trẻ em (IPTi) ngoại trừ những nơi mà WHO khuyến cáo sử dụng SMC; chẩn đoán tức thì và điều trị hiệu quả các trường hợp nhiễm sốt rét. Với bất kỳ bệnh nhân nào là trẻ em mà nghi ngờ mắc sốt rét phải được xác định ký sinh trùng để chẩn đoán trước khi điều trị bắt đầu, việc cung cấp chẩn đoán đó không làm chậm sự điều trị ý nghĩa. Các dẫn chất artemisinin là an toàn và dung nạp tốt với các thuốc kết hợp. Nhiều thuốc kháng sốt rét thiếu các công thức cho trẻ em, cần thiết phân chia theo các viên cho người lớn, điều này có thể dẫn đến liều dùng không chính xác. Bởi vì tình trạng lâm sàng của trẻ em nhiễm sốt rét có thể tồi tệ một cách nhanh chóng, cần phải có một ngưỡng giới hạn thấp cho việc điều trị bằng thuốc tiêm. Các dữ liệu gần đây ủng hộ sử dụng artesunate bằng đường tĩnh mạch là thích hợp hơn sử dụng quinine trong điều trị sốt rét ác tính ở trẻ em. Khi điều trị bằng đường tiêm chích không thể thực hiện, artesunate phải được cho qua đường trực tràng và trẻ em được chuyển đến các cơ sở y tế cho một sự điều trị bằng tiêm truyền đầy đủ. Một liều đơn của artesunate qua trực tràng là một điều trị trước khi chuyển tuyến làm giảm nguy cơ trẻ em tử vong do thời gian.
Sốt rét ở quần thể di cư và di biến động
Trên nhiều thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã đạt được giảm sự bùng phát sốt rét hằng định. Một số trong những quốc gia này, bây giờ sốt rét chỉ giới hạn ở vùng sâu, vùng rừng núi, và các ca sốt rét trong các quần thể di cư và di biến động chiếm một tỷ lệ cao trong tổng số các ca bệnh. Các tiến bộ hướng tới việc loại trừ sốt rét ở các quốc gia này đòi hỏi cải thiện cách tiếp cận các dịch vụ y tế cho nhóm người này. Ở các quốc gia nơi mà sốt rét đã bị loại trừ thì Bộ Y tế cần đảm bảo rằng các nhóm dân di cư, dân tỵ nạn hay quần thể di biến động phải tiếp cận đầy đủ các biện pháp phòng ngừa. Việc tập trung đặc biệt vào quần thể di cư, tỵ nạn và quần thể di biến động được đảm bảo cũngvới lý do khác : các nhóm này thường tìm kiếm sự điều trị từ những người bán thuốc dạo, thường xuyên làm gia tăng nguy cơ phơi nhiễm của họ tới những thuốc kém chất lượng hay đơn liệu pháp dựa vào artemisinin. Các chương trình ngăn chặn sự đề kháng với artemisinin ở Cambodia, Myanmar, Thailand và Việt nam bao gồm các biện pháp đặc biệt tập trung vào nhóm di cư như là chiến dịch phân bố màn tẩm diệt hoá chất, thiết lập các điểm sàng lọc,và sự cung cấp các test chẩn đoán nhanh và dịch vụ điều trị ở các nơi hoạt động.
Sốt rét ở các bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS
Sốt rét và HIV kết hợp gây ra hơn hai triệu người chết mỗi năm. Sự chồng lấn về mặt địa lý đáng kể giữa sốt rét và HIV/AIDS làm cho một số lượng đồng nhiễm hằng định xảy ra. Ở các vùng có sự lan truyền sốt rét ổn định, HIV làm gia tăng nguy cơ nhiễm sốt rét và sốt rét lâm sàng ở người lớn, đặc biệt ở những người có suy giảm miễn dịch lớn. Ở những vùng có sự lan truyền sốt rét không ổn định nguời lớn nhiễm HIV làm gia tăng nguy cơ sốt rét có biến chứng , sốt rét ác tính và tử vong. Báo cáo cũng đề nghi rằng thất bại trong điều trị kháng sốt rét có thể phổ biến hơn ở các người lớn nhiễm HIV với số lượng tế bào CD4 thấp so với những người không bị nhiễm HIV. Nghiên cứu bổ sung là cần thiết nhằm điều tra tác động của sốt rét về mặt lịch sử tự nhiên của HIV, các dính líu điều trị tiềm năng, và các tương tác ở mức tế bào và phân tử.
Phụ nữ có thai có nguy cơ đặc biệt
Mối tương tác giữa hai nhiễm trùng có thể gây các hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt đối với phụ nữ có thai. Phụ nữ có thai nhiễm HIV khi bị nhiễm sốt rét làm gia tăng nguy cơ với tất cả các kết quả xấu do sốt rét trong thời kỳ mang thai. Phụ nữ có thai đồng nhiễm chắc là dẫn đến các nhiễm trùng sốt rét có triệu chứng, thiếu máu, nhiễm sốt rét qua nhau thai, trẻ sinh ra có trọng lượng thấp. Các nghiên cứu dịch tể học đánh giá tác động của sốt rét nhau thai trên sự lan truyền HIV từ mẹ sang con cho đến nay là còn trái ngược nhau. Chẩn đoán dựa vào ký sinh trùng là cực kỳ quan trọng ở các cá thể nhiễm HIV bởi vì giới hạn rộng rãi của các nhiễm trùng có thể xuất hiện như sốt ở các bệnh nhân bị HIV. Mặc dầu suy giảm miễn dịch cóliên quan đến HIV đã được chứng minh có liên quan đến gia tăng tỷ lệ thất bại trong điều trị thì hiện nay không có thông tin đầy đủ để thay đổi các khuyến cáo điều trị sốt rét nói chung cho những bệnh nhân có HIV/AIDS.
Các tương tác giữa các thuốc tiềm năng
Sự cân nhắc và xem xét phải được tính đến khả năng tương tác giữa các thuốc ở các bệnh nhân đồng nhiễm nhận thuốc sốt rét hay liệu pháp dự phòng và thuốc kháng virus hay thuốc dự phòngcho nhiễm HIV. Điều trị hay hoá dự phòng cách quãng với sulfadoxine-pyrimethamine phải không được cho với các bệnh nhân nhiễm HIV nhận cotrimoxazole ( trimethoprim cộng với sulfamethoxazole) dự phòng bởi vì điều này làm gia tăng nguy cơ các phản ứng phụ do thuốc được tạo ra bởi sulfonamide. Điều trị ở các bệnh nhân nhiễm HIV với zidovudine hay efavirenz , nếu có thể phải tránh liệu trình ACT chứa amodiaquine bởi vì điều này làm gia tăng nguy cơ giảm bạch cầu trung tính và gây độc cho gan.