Việt Nam là một trong 6 nước Tiểu vùng sông Mê Kông thuộc Đông Nam châu Á, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển. Mặc dù những năm qua Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét đã đạt được nhiều kết quả đáng kể nhằmgiảm mắc, giảm chết và không để dịch sốt rét xảy ra. Tuy nhiên, tình hình sốt rétở khu vực miền Trung-Tây Nguyên (MT-TN) vẫn chưa ổn định và cao hơn các khu vực khác trong nước; đặc biệt tỷ lệ mắc sốt rét và tử vong sốt rét dai dẳng ở cộng đồng dân tộc thiểu số đang sống trong các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới nhiều khó khăn về giao thông đi lại, kinh tế quá nghèo và lạc hậu, phong tục tập quán và trình độ học vấn thấp, tập quán du canh du cư, đi rừng, ngủ rẫy; nhất là tình trạng dân di cư tự do tập trung tại các vùng sốt rét lưu hành nặng đã tạo ra nhiều nguy cơ bùng phát sốt rét trở lại. Với nguy cơ sốt rét hiện nay, Dự án hỗ trợ kỹ thuật vùng thông qua sự hợp tác giữa ngân hàng phát triển Á Châu (ADB) và Văn phòng Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khu vực Tây Thái Bình Dương đã chọn 6 thí điểm cho 6 quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) để thực hiện mô hình PCSR cho đồng bào các dân tộc thiểu số có đời sống kinh tế khó khăn, đang sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng nhằm duy trì tính bền vững của các mục tiêu PCSR; trong đó thí điểm đang tiến hành tại Việt Nam là đồng bào dân tộc Raglei ở huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.  | |
| Đồng bào dân tộc Raglei ở huyện Khánh Vĩnh | tỉnh Khánh Hòa là đối tượng VIC trong dự án ADB |
Từ tháng 11/2002-12/2004,Giai đoạn I của Dự án về Thông tin, giáo dục và truyền thông (IEC) trong chiến dịch đẩy lùi sốt rét đã được tiến hành tại 6 thí điểm. Sau khi đánh giá kết quả hoạt động IEC, tháng 9/2005 ADB đã đồng ý hỗ trợ bổ sung về tài chính, thông qua WHO và các nước GMS với mục tiêu giảm bùng phát sốt rét ở các nhóm dân tộc thiểu số sống trong vùng sốt rét lưu hành. Từ 25-26/11/2005, cuộc họp 6 nước GMS tham gia Dự án gồm Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cambodia, Thailand, Myanmar và đại diện của ACT Malaria tại thủ đô Vientian (Lào) dưới sự chủ trì của Dr. Kevin Palmer-Cố vấn Văn phòng WHO khu vực Tây Thái Bình Dương và Dr. Vincent de Wit-Chuyên gia Ngân hàng phát triển Á Châu đã đánh giá lại kết quả thực hiện ở giai đoạn I (2002-2004) và xây dựng các kế hoạch hoạt động tiếp theo cho giai đoạn II (2005-2007).
 |
Trạm Y tế xã Khánh Nam |
 |
Trạm Y tế xã Khánh Trung |
Được sự cho phép của Bộ Y tế theo Công văn số: 326/DP-DT, ngày 3/10/2005 về việc tham gia hợp tác kỹ thuật vùng “Tăng cường kiểm soát bệnh sốt rét cho vùng thiểu số” do ADB tài trợ; Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn là đơn vị thực hiện Dự án tại Việt Nam, nhằm đạt được mục tiêu chung là giảm tác hại của sốt rét với các dân tộc thiểu số có đời sống kinh tế khó khăn sống trong vùng sốt rét lưu hành, từ đó giúp làm giảm tử vong ở trẻ em và phụ nữ có thai.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Y tế, từ tháng 11/2005-tháng 1/2006 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tiếp cận và làm việc với các chuyên gia Dự án tại Vientian (Lao PDR), Ngân hàng ADB, Văn phòng Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam và Philippines về việc thành lập Ban điều hành và nhóm chuyên gia của Viện; khảo sát và lựa chọn 2 xã Khánh Nam và Khánh Trung thuộc huyện huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa để triển khai Dự án trong giai đoạn II (2005-2007); trao đổi các thông tin liên quan đến Dự án, các giải pháp kỹ thuật quản lý và công tác truyền thông phù hợp với đặc điểm của dân tộc Raglei. Nhóm Tư vấn của dự án tại Vietian (Lào) cũng đã gửi cho Viện khung thời gian và nội dung thực hiện Dự án bao gồm các hoạt động:
+ Thiết kế, giám sát và đánh giá, tập huấn cho các nhóm y tế cơ sở về phương pháp quản lý truyền thông (IEC).
+ Thực hiện các biện pháp can thiệp tại thực địa cho nhóm dân tộc thiểu số chủ yếu bằng các phương pháp truyền thông và vật liệu truyền thông.
+ Điều tra các chỉ số trong đó có các chỉ số lưu hành sốt rét.
+ Xác định và sản xuất các vật liệu truyền thông phù hợp cho các nhóm dân tộc thiểu số.
+ Đánh giá hiệu quả biện pháp IEC cấp quốc gia và vùng.
Mặc dù nguồn kinh phí do ADB đầu tư cho Dự án này tại Việt Nam trong giai đoạn II không lớn, năm thứ Nhất (2006) là 30.000 USD và năm thứ hai (2007) là 18.000 USD; nhưng đây là cơ hội để Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và các tỉnh trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên có điều kiện tiếp cận và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế nhằm học hỏi kinh nghiệm phòng chống sốt rét từ các nước trên thế giới.