Phần 3 (tiếp theo và hết): Sốt rét do Plasmodium malariae: Ký sinh trùng sốt rét bị lãng quên và những khó khăn, thách thức trong phòng chống & loại trừ sốt rét
Với sự tồn tại dai dẳng của ký sinh trùng P. malariaemột lần nữa đưa ra giả thuyết có sự tồn tại của thể ngủ trên thực tế? “sự tồn tại chưa được chứng minh” (như đối với P. ovale) hoặc một thể ngủ tại nơi khác, chẳng hạn như lách.Hoặc một số giả thuyết khác cho rằng có hai khả năng khác tồn tại. Đầu tiên, khái niệm về chu kỳ ngoại hồng cầu thứ cấp. Giả thuyết cho rằng một số merozoite ở gan xâm nhập vào tế bào ganmới khác để duy trì chu kỳ gan đã được Henry Edward Shortt và Percy Cyril Claude Garnham đề xuất vào năm 1948 và chỉ bị loại bỏ khi phát hiện ra thể ngủ (hypnozoite) vào năm 1980. Giả thuyết này vẫn chưa được khám phá.Một quan sát duy nhất về sự phát triển của thể phân liệt của Plasmodium chabaudi và Plasmodium yoelii trong gan của Thamnomys rutilanshỗ trợ chu kỳ ngoại hồng cầu thứ cấp này, mặc dù vậy nó vẫn không đủ bằng chứng để khẳng định cho giả thuyết này. Một giả thuyết khác, đó là sự tồn tại của các dạng hồng cầu không hoạt động, được các nhà nghiên cứu sốt rét người Ý viện dẫn vào những năm 1890 để giải thích bệnh sốt rét tiềm ẩn. Các cuộc điều tra về ký sinh trùng sốt rét ở loài gặm nhấm cho thấy sự tồn tại của các merozoite tiềm ẩn. Những quan sát ban đầu về ký sinh trùng tự do trong tuần hoàn bạch huyết của chuột bị nhiễm bệnhvà các merozoite nguyên vẹn trong tế bào lympho đã dẫn tới việc phát hiện ra merophores, một thuật ngữ được đặt ra để biểu thị các nhóm merozoite nguyên vẹn, thường được bao bọc trong một túi bọc hoặc trong một tế bào lympho, được tìm thấy chủ yếu ởlách và hệ tuần hoàn bạch huyết của chuột bị nhiễm bệnh. Sự xuất hiện của ký sinh trùng ở trạng thái ngừng phát triển được đề xuất qua khi quan sát P. falciparum được nuôi cấy invitro trong vài ngày với liều Pyrimethamine ức chế hoàn toàn nhưng sau đó xuất hiện trở lại khi loại bỏ thuốc. Một hiện tượng tương tự đã được phát hiện đối với các giai đoạn tư dưỡng của P. falciparum trong môi trường nuôi cấy tiếp xúc với Artesunate, và sau đó người ta xác nhận rằng các ký sinh trùng như vậy có thể vẫn “không hoạt động” trong tối đa 25 ngày. Không có trở ngại sinh học nào để loại bỏ khả năng P. malariae cũng có thể tiềm ẩn như vậy, có thể hoạt động trao đổi chất tối thiểu, vẫn tồn tại trong thời gian dài đáng kể. ·Véc tơ truyền bệnh sốt rét do Plasmodium malariae đa đạng Nhiều véc tơ khác nhau đã được chứng minh có khả năng lây nhiễm ký sinh trùng Plasmodium malariae, ít nhất là trên thực nghiệm. Sự phát triển của P. malariae ở muỗi đã được một số tác giả mô tả; nghiên cứu chính xác đầu tiên được thực hiện bởi Shute và Maryonvề sự phát triển của P.malariae ở muỗi Anopheles atroparvus. Trong các nghiên cứu của Collins và cộng sự với Anopheles freeborni,ở nhiệt độ 25°C, thoa trùng có mặt trong tuyến nước bọt trong khoảng 17 ngày, chu kỳ phát triển ở muỗi dài hơn chu kỳ của P. falciparum và P. vivax khoảng 5 ngày và dài hơn chu kỳ của P. ovale khoảng 3 ngày..Với khả năng phát triển trong nhiều loài muỗi Anopheles khác nhau, giúp cho việc lan truyền P.malariae dễ dàng và thuận lợi hơn, và đây cũng là một khó khăn cho chiến lược kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét do P.malariae. Tuy số lượng giao bào ở bệnh nhân nhiễm P. malariaetương đối ít, góp phần cho thấy rằng sự lây truyền của P. malariaecó phần kém hiệu quả hơn các loài KSTSR khác (điều này tình cờ cũng có thể giải thích cho sự phân bố không đồng đều của P.malariae). Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu số lượng giao bào ít có được coi là dấu hiệu của khả năng truyền bệnh kém hay không. Thật vậy, một đặc điểm chung của các báo cáo về sự lây truyền thực nghiệm đó là thiếu mối tương quan giữa số lượng giao bào trong máu và khả năng lây nhiễm thành công của muỗi. Người ta có thể đề xuất một cách chính đáng rằng sự lây truyền P. Malariae sang muỗi xảy ra liên tục, mặc dù ở mức độ thấp, điều này sẽ đảm bảo một lượng muỗi truyền nhiễm liên tục trong suốt mùa truyền bệnh. Bảng 4. Các loài muỗi Anopheles được xác định có khả năng lây truyền Plasmodium malariae STT | Khu vực | Loài Anopheles | 1 | Africa | A. arabiensis, A. gambiae , A. funestus, A. melas, A. moucheti | 2 | Southeast Asia | A. dirus, A. minimus , A. aconitus, A. hyrcanus sinensis, A. sundiacu, A. splendidus, A. lindesayi,A. fuliginosus | 3 | Bangladesh, Myanmar | A. jeyporiensis | 4 | India | A. lindesayi,A. varuna | 5 | India, Burma, Sri Lanka | A. culicifacies | 6 | Malaysia | A. maculatus | 7 | Europe | A. atroparvus, A. messeae,A. plumbeus,A. saccharovi,A. claviger | 8 | Australasia | A. annulipes, A. punctulatus | 9 | Southeastern United States | A. punctipennis,A. quadrimaculatus | 10 | Western United States | A. freeborni | 11 | Middle East, Asia | A. stephensi, A. fluviatilis | 12 | Mexico | A. aztecus | 13 | South America | A. darlingi | 14 | Southwest Pacific | A. farauti | 15 | Tổng loài | 33loài |
Nguồn: Collins WE, Jeffery GM. Plasmodium malariae: parasite and disease. Clin Microbiol Rev. 2007 Oct;20(4):579-92. doi: 10.1128/CMR.00027-07. PMID: 17934075; PMCID: PMC2176047. Tính đến thời điểm hiện tại, P. malariae vẫn là một trong những “bệnh sốt rét bị lãng quên”, được ít nghiên cứu do khả năng khám phá khó khăn và tần suất lây truyền thấp so với các loài khác. Tuy nhiên, sự gia tăngmột số trường hợp nhiễm P. malariae ở các khu vực lan truyền đặc hữu, như tại các nước Tiểu vùng sông Mê Kông, bao gồm cả Việt Nam, đặt ra một tín hiệu cảnh báo và yêu cầu cần có sự quan tâm hơn từ cộng đồng nghiên cứu và các chuyên gia trong lĩnh vực này.Ngoài ra,những thách thức đặc biệt khi đối mặt với P. malariae, từ giai đoạn tiềm tàng kéo dài đến khả năng khó phân biệt về hình thểcủa KSTSR trong hồng cầu thì cần có sự nghiên cứu chi tiết và quan tâm đặc biệt để hiểu rõ về các khía cạnh, từ đó xây dựng chiến lược phòng chống hiệu quảcho căn bệnh này. Trong tương lai, việc tập trung vào nghiên cứu tại các địa phương lưu hành loài KSTSR này,cải thiện phương pháp chẩn đoán, vàchủ động trong quản lý các trường hợp bệnh sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc đối mặt với thách thức do KSTSR P. malariae. Sự cần thiếttăng cường hợp tác quốc tế và chia sẻ thông tin để tạo ra một chiến lược chung mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến chống phòng sốt rét, bao gồm cả P. malariae và những loài ký sinh trùng khác.Cuối cùng, để đạt được mục tiêu loại trừ sốt rét, chúng ta cần đối mặt với thách thức này không chỉ từ góc độ y tế mà còn từ góc độ xã hội và môi trường, tạo ra một chiến lược toàn diện và bền vững để giữ cho sốt rét không còn là mối đe dọa đối với sức khỏetoàn cầu. Tài liệu tham khảo
1.M. A. Abdulraheem (2022), "High prevalence of Plasmodium malariae and Plasmodium ovale in co-infections with Plasmodium falciparum in asymptomatic malaria parasite carriers in southwestern Nigeria", Int J Parasitol. 52(1), 23-33. 2.P. A. Camargo-Ayala (2016), "High Plasmodium malariae Prevalence in an Endemic Area of the Colombian Amazon Region", PLoS one. 11(7), e0159968. 3.W. E. Collins G. M. Jeffery (2007), "Plasmodium malariae: parasite and disease", Clin Microbiol Rev. 20(4), 579-92. 4.R. Culleton, A. Pain G. Snounou (2023), "Plasmodium malariae: the persisting mysteries of a persistent parasite", Trends Parasitol. 39(2), 113-125. 5.H. P. Fuehrer, S. Campino C. J. Sutherland (2022), "The primate malaria parasites Plasmodium malariae, Plasmodium brasilianum and Plasmodium ovale spp.: genomic insights into distribution, dispersal and host transitions", Malar J. 21(1), 138. 6.R. Grande (2019), "A case of Plasmodium malariae recurrence: recrudescence or reinfection?", Malar J. 18(1), 169. 7.S. Jongwutiwes (2004), "Naturally acquired Plasmodium knowlesi malaria in human, Thailand", Emerg Infect Dis. 10(12), 2211-3. 8.D. P. Mason, F. E. McKenzie W. H. Bossert (1999), "The blood-stage dynamics of mixed Plasmodium malariae-Plasmodium falciparum infections", J Theor Biol. 198(4), 549-66. 9.F. E. McKenzie, G. M. Jeffery W. E. Collins (2001), "Plasmodium malariae blood-stage dynamics", J Parasitol. 87(3), 626-37. 10.I. Mueller, P. A. Zimmerman J. C. Reeder (2007), "Plasmodium malariae and Plasmodium ovale--the "bashful" malaria parasites", Trends Parasitol. 23(6), 278-83. 11.E. C. Oriero (2021), "Plasmodium malariae, current knowledge and future research opportunities on a neglected malaria parasite species", Crit Rev Microbiol. 47(1), 44-56. 12.P. G. Shute M. Maryon (1951), "Studies in the transmission of Plasmodium malariae by Anopheles mosquitoes", Parasitology. 41(3-4), 292-300. 13.B. Singh (2004), "A large focus of naturally acquired Plasmodium knowlesi infections in human beings", Lancet. 363(9414), 1017-24. 14.C. J. Sutherland (2020), "A New Window on Plasmodium malariae Infections", J Infect Dis. 221(6), 864-866. 15.C. J. Sutherland (2016), "Persistent Parasitism: The Adaptive Biology of Malariae and Ovale Malaria", Trends Parasitol. 32(10), 808-819. 16.J. M. Vinetz (1998), "Plasmodium malariae infection in an asymptomatic 74-year-old Greek woman with splenomegaly", N Engl J Med. 338(6), 367-71. 17.J. Woodford (2020), "An Experimental Human Blood-Stage Model for Studying Plasmodium malariae Infection", J Infect Dis. 221(6), 948-955.
|