Kết quả từ những nghiên cứu trên thế giới
Nhiều báo cáo gần đây về thất bại điều trị do kháng thuốc giun sán (KTGS) chi tiết trên bệnh nhân mắc sán máng và giun tròn ở người được đăng tải trên các tạp chí y học. Dù các phân tích và dữ liệu liên quan các nghiên cứu vẫn còn đang tranh luận, song chúng đã cảnh báo sự gia tăng tiềm ẩn về kháng thuốc điều trị, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và phòng bệnh giun sán nói chung. Cách nay 20 năm, nhiều nhà khoa học đã cân nhắc về tình hình KTGS ở gia súc nhưng lại bị lãng quên, song một báo cáo gần đây đưa ra dữ liệu và tổng hợplịch sử KTGS trên vật nuôi, nên những quan tâm và lo lắng như thế không phải là vô ích vì hiện nay KTGS là một vấn đề nghiêm trọng nhất, đe dọa nền công nghiệp chăn nuôi tại các trang trại ở Australia, Nam Phi, Nam Mỹ và châu Âu. Tỷ lệ KTGS rất cao, thường vượt 50% tại các vùng trên thế giới có nhiễm giun sán đường tiêu hóa ở cừu, dê, ngựa, ngay cả đa kháng thuốc cũng không kém phần quan trọng trong lĩnh vực thú y và hậu quả là một số nơi như ở Paraguay và Nam Phi, nông dân bắt đầu từ bỏ nghề nuôi cừu ở nông trại của họ bởi vì KTGS dẫn đến giảm năng suất và sản lượng quá nhiều, trong khi các biện pháp can thiệp thì chưa hiệu quả.
Thay đổi về thuật ngữ:
Thuật ngữKTGS_kháng thuốc giun sán ở người được định nghĩa như một quần thể ký sinh trùng thừa hưởng di truyền về giảm tính nhạy với các hoạt chất của thuốc. Giảm tính nhạy này thể hiện sự giảm về tấn suất được quan sát của cá thể riêng biệt trong cùng một quần thể bị thuốc tác động so với tần suất được quan sát trên cùng một quần thể lớn dựa vào thời gian phơi nhiễm với thuốc trước đó. Mặc dù định nghĩa này chưa thấu đáo, song tương đối đầy đủ, bao hàm 2 khác biệt về mặt sinh học nhưng không phải luôn luôn là những quá trình có thể phân biệt một cách minh bạch, đó là:
(i)Những dòng ký sinh trùng từ lâu đã dung nạp một lượng thuốc thường xuyên có thể phát triển kháng, đặc biệt do áp lực thuốc và
(ii)Những ký sinh trùng nhạy cảm trước đây nay phát sinh đột biến di truyền do phơi nhiễm với thuốc hoặc cơ chế lựa chọn dưới áp lực thuốc.
§Về nguyên nhân gây ra kháng thuốc do sử dụng thuốc một cách bừa bãi trong phòng chống bệnh giun sán ở người. Các loài giun sán ít có khả năng phát triển kháng thuốc hoặc kháng rất chậm so với tác nhân nhiễm trùng khác bởi chúng nhân lên với một tỷ lệ thấp (Cerami và Warren., 2000). Giải thích này chỉ mang tính chất thận trọng trong điều trị bệnh giun sán ở người;
§Hiện nay, KTGS trên gia súc đã rõ và phức tạp, trong khi số liệu về KTGS ở người rất hạn chế, chỉ ghi nhận vài ca không đáp ứng, thậm chí cho rằng vấn đề này chưa phải là vấn đề y tế, song chúng ta đều biết các số liệu được trình bày chỉ thể hiện tảng băng nổi mà thôi (iceberg). Những bài học kinh nghiệm trong ngành thú ý cho thấy để đến khi chúng được quan tâm thì quá muộn và xuất hiện không còn nhạy cảm thuốc nữa;
§Thất bại điều trị trên những cá thể riêng rẽ có thể không được chú ý, vì hầu hết những trường hợp nhiễm giun sán không biểu hiện lâm sàng;
§Về mặt dịch tễ học, các nhà KST đã giám sát vấn đề này nhưng nhìn nhận sự phát triển kháng thuốc và đặc biệt trong KTGS thường trình bày theo sau một mô hình tượng trưng. Do đó, giai đoạn ủ bệnh của bệnh giun sán càng dài thì sẽ là sự khởi phát đột ngột của vấn đề KTGS khó tránh khỏi, khi đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng về mặt lâm sàng và y học dự phòng. Đã hơn một thập niên qua, các nhà nghiên cứu thú y đãtìm ra và gây sự chú ý cho y tếcộng đồng về nguy cơ KTGS trên người, chẳng hạn loài giun móc/ mỏ vàsán máng. Rút ra những bài học kinh nghiệm trên nghiên cứu thực địa, họ đã đưa ra dẫn chứng cho nhân viên y tế cách dùng thuốc điều trị giun sán cẩn trọng hơn để tránh hoặt ít ra là trì hoãn hoặc làm chậm quá trình tiến triển của kháng thuốc. Song, việc sử dụng thuốc lan rộng và không khoa học trong phòng chống bệnh sán máng, bệnh giun chỉ onchocerciasis và giun truyền qua đất đã tạo ra lựa chọn dòng và tăng áp lực thuốc hơn bao giờ hết, điều đó có nghĩa là tình trạng KTGS trên người khó tránh khỏi;
§Tình trạng kháng thuốc do các loại giun tròn (giun móc) và sán lá (sán máng) ký sinh ở người. KTGS trên các loài thuộc sán dây ở người chưa được báo cáo và thực tếnghiên cứu trên gia súc nhiễm sán dây người ta cũng chưa thấy kháng thuốc;
§Thuốc giun sán (TGS) chủ yếu dùng điều trị ở người hiện nay là Mebendazole (MEB), Albendazole (ALB), Pyrantel pamoate (PP) và Levamisole (LEV) cho các loại giun tròn đường tiêu hóa; Ivermectin (IVM) cho bệnh giun chỉ onchocerciasis và DEC đơn thuần hoặc phối hợp với ALB hoặc phối hợp IVM-ALB để điều trị bệnh giun chỉ bạch huyết. Tùy thuộc vào tình hình dịch tễ, thuốc sẵn có và chi phí điều trị, các thuốc này được sử dụng rộng rãi ở các hệ thống chăm sóc y tế khác nhau nhằm điều trị triệt căn ca bệnh lâm sàng nhiều năm qua. Ngoài ra, việc sử dụng các TGS hiện có xu hướng lan rộng và bừa bãi do mục đích hoặc chủ trương dự phòng dựa trên tình hình nhiễm quần thể;
§Cấp uống TGS (liều duy nhất) theo thường quy cho toàn dân hoặc nhóm nguy cơ cao, hy vọng làm giảm tỷ lệ tử vong và tình trạng lan truyền bệnh và còn đề nghị nên có những phác đồ thuốc phối hợp giữa ALB, IVM và Praziquantel (PZQ) ở liều thấp trong một một viên thuốc duy nhất và phân phối nó đến tất cả những trẻ em đang độ tuổi đi học tại các quốc gia đang phát triển. kinh nghiệm cho thấy, các chiến lược điều trị toàn dân hay nhóm nguy cơ sẽ phát sinh nguy cơ KTGS nhưng họ rất chủ quan cho rằng nó không quan trọng, nên khuyến cáo và bàn luận cũng như kinh nghiệm trong thú y đã khiến họ phải suy nghĩ;
§Với nhiễm giun móc/mỏ, người ta khuyên nên điều trị đầy đủ và hầu hết các loại giun tròn khác, song rất tiếc khó đạt được tối đa với bất kỳ loại nào. Tùy vào liều dùng và phương pháp xét nghiệm phân chuẩn hóa nào được áp dụng để đánh giá sự khỏi bệnh. Một vài số liệu cho thấy tỷ lệ chữa khỏi thấp: 61% (400 mg) và 67% (800 mg) đối với ALB; 0% (liều duy nhất) và 23% (liều lặp lại) đối với LEV; 30% (liều duy nhất) và 37% (liều lặp lại) đối với PP; 27% đối với Thiabendazole; 19% (liều duy nhất) và 45% (liều lặp lại) đối với MEB;
§Ít nhất một vài quần thể giun móc/ mỏ có mức độ dung nạp tốt (có thể bẩm sinh) với liều thấp nhất của thuốc đang sử dụng, ngay cả tính nhạy cảm của giun móc và mỏ (Ancylostoma duodenale và Necator americanus) cũng có sự khác biệt rõ về mức dung nạp của cùng một chủng lại khác nhau theo vùng.
Ngược với bệnh giun sán trong thú y thì các phương pháp này có giá trị giới hạn, KTGS sẽ được xác định chuẩn mực, thế nhưng không có một hướng dẫn cụ thể nào liên quan để áp dụng cho đánh giá KTGS trên người, tại sao?. phương pháp in vitro để xác định về mặt sinh học KTGS không được áp dụng hoặc không phù hợp cho loài giun tròn ở người. Tình hình vùng lưu hành bệnh tại địa phương và khoảng thời gian theo dõi có tầm quan trọng hơn trong những xét nghiệm để phát hiện KTGS vì tại các vùng lưu hành nặng và rất nặng, con người (nhất là trẻ em) được chữa khỏi song lại tái nhiễm nhanh và có thể tìm thấy mật độ trứng đạt đến bằng mức trước điều trị chỉ trong vòng vài tháng, chưa kể họ có thể mang KST giai đoạn tiềm tàng, điều này bị ảnh hưởng bởi một vài thuốc nhưng không phải là các thuốc như MEB vì thuốc này khó hấp thu. Như thế, chúng ta khó mà phân biệt được liệu đây là trường hợp tái nhiễm hay đã kháng thuốc?
Thử nghiệm lâm sàng thuốc điều trị giun sán trên người đòi hỏi phương pháp thống kê khắt khe vì những loài giun sán sẽ phát tán nhanh trong 1 quần thể do những yếu tố liên quan đến sinh lý, miễn dịch, sinh thái và hành vi của chính họ. Vì vậy, các quần thể được nghiên cứu và can thiệp phải đủ lớn và mang tính ngẫu nhiên khi chọn ra và phân tích, nếu bất kỳ có sai số chùm phải được loại trừ. Một vài người nhiễm trong một nhóm người có thể dẫn đến những tình huống xấu trong quá trình theo dõi và phân tích kết quả. Rõ ràng, thiếu các phương pháp phù hợp và số liệu tham chiếu, cùng yếu tố nhiễu và thống kê phức tạp dẫn đến khâu đánh giá, phiên giải kết quả hiệu lực thuốc sẽ thấp.
Hai bài báo gần đây nhất có liên quan đến KTGS với thuốc điều trị giun móc ở người. Cả 2 là nghiên cứu trên cộng đồng, ít tập trung khía cạnh lâm sàng. De Clercq và cộng sự mô tả về thất bại của thuốc MEB trong điều trị N.americanus ở Mali; tác giả Reynoldson báo cáo về hiệu lực thấp của thuốc PP trong điều trị A. duodenaleở tây bắc Australia. Nhìn chung, họ đề cập đến nguyên nhân khác nhau có liên quan đến làm giảm tính nhạy của thuốc điều trị giun móc: biến đổi di truyền về tính nhạy với giun móc/ mỏ tại đó (vì áp lực lựa chọn thuốc không trọn vẹn) hoặc các yếu tố từ vật chủ (chế độ ăn) có thể làm thay đổi đặc tính dược động học của thuốc. Dưới điều kiện như thế, KTGS sẽ phát triển nhanh chóng vì thiếu sự tràn dòng của các kiểu gen nhạy.
Cả nhóm chứng và nhóm giả dược cho thấy tỷ lệ giảm trứng lần lượt là 37.5% và32.5%. Điều này nói lên hiệu lực thuốc mebendazole thấp nhưng cũng chưa loại trừ sai số ở chỗ phương pháp và thống kê. Việc xác định kết quả in vitro ở Mali dựa trên kỹ thuật đẻ trứng nhân tạo, thường làm trong thú y nhưng chưa chuẩn hóa quy trình cho nghiên cứu trên người) cho biết tỷ lệ giảm khả năng đẻ trứng đến 50% so với dòng trong labo, nhưng nhớ là sự khác biệt về các dòng, tiến trình lấy mẫu thực địa, trì hoãn trong khâu vận chuyển,…có thể làm ảnh hưởng đến kết quả. Một lần nữa, nghiên cứu này cho thấy một hướng đi tốt nhất, nhưng không cung cấp bằng chứng kết luận cho hiệu quả MEB trong việc làm giảm này. Nghiên cứu này vì thế được lặp lại với thiết kế nghiên cứu chặt chẽ hơn, trong đó so sánh hiệu lực của 3 loại thuốc giun sán (MEB, ALB, PP) điều trị N. americanus. Các đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ được kiểm tra lại sau 10 ngày điều trị. Sau khi điều chỉnh các sai sót, độ lệch của khâu kỹ thuật đếm trứng trong phân, thông số thuốc giả dược, tuổi, giới, tình trạng nhịn đói, cường độ nhiễm, điều trị liều duy nhất mebendazole (500 mg) chỉ ra hiệu quả giảm trứng từ 60.9 - 89.9%, phụ thuộc vào phương pháp nào để đánh giá kết quả. Hiệu lực thuốc ghi nhận khi dùng ALB (liều duy nhất 400mg) và PP (12.5mg/kg) có tỷ lệ giảm trứng lần lượt là 92.1-99.7% và 4.8-89.7%. Vì vậy, nó vẫn là một vấn đề liệu thuốc pyrantel hay mebendazole giảm hiệu lực chống lại N. americanus hoặc quá trình kháng thuốc bắt đầu hình thành.
Nói tóm lại, kháng thuốc ở giun móc/ mỏ người có thể đã tồn tại rồi, song bằng chứng thuyết phục nhất đến nay vẫn còn chưa thấu đáo. Các nghiên cứu tương lại sẽ được tiến hành dưới các điều kiện kiểm chứng tốt hơn và sử dụng phương pháp chuẩn hóa trong thiết kế nghiên cứu, tính toán số liệu liên quan đến hiệu lực thuốc và phân tích thống kê để xác định sự có mặt hoặc vắng mặt của kháng thuốc trong những quần thể giun móc tại các vùng kháng nhau. Việc thực hiện theo protocol đã chuẩn hóa như trong lĩnh vực thú y và sự đồng ý của Hội Ký sinh trùng thú y thế giới sẽ mang tính khoa học và đưa ra bằng chứng chính xác cũng như cơ chế kháng làm sáng tỏ.
Các nhân tố góp phần vào hình thành kháng thuốc
1.Tần suất số lần điều trị cho cộng đồng cao
-Barton và Martin (2002) cho biết một khi lựa chọn tần suất số lần điều trị càng nhiều thì KTGS sẽ mạnh hơn do gây ra áp lực thuốc. Trong y tế thú y, đã có bằng chứng cho thấy KTGS phát triển nhanh ở những vùng mà động vật được sổ giun thường xuyên và cụ thể vấn đề kháng thuốc ở loài Haemonchus contortus đã được báo cáo ở một số vùng nhiệt đới, nơi mà tần suất điều trị 10-15 lần /năm được áp dụng để phòng chống bệnh ký sinh trùng ở các động vật;
-Tuy nhiên, KTGS cũng có thể được lựa chọn ở tần suất điều trị thấp hơn, đặc biệt khi cùng loại thuốc sử dụng trong một thời gian dài (ALB và MEB) và một vài tác giả đã báo cáo sự phát triển kháng thuốc ngay cả khi chỉ có 2 hoặc 3 lần điều trị/ mỗi năm.
2.Áp dụng thường xuyên liệu trình đơn trị liệu liều duy nhất
-Thông thường dùng đơn trị liệu và liều duy nhất rất có hiệu quả trong những năm đầu nên vẫn còn tiếp tục dùng đến vài năm sau khi thay đổi chiến lược. Một nghiên cứu trên nông dân nuôi cừu ở Mỹ, tác giả Reinemeyer và cộng sự phát hiện 1 trong 2 đàn cừu được dùng liều thuốc đơn trị liệu cho đến lúc thất bại điều trị. Thời gian sử dụng dài với thuốc LEV ở gia súc cũng dẫn đến phát triển kháng thuốc, mặc dù tần suất điều trị hằng năm là thấp và giun tròn trong gia súc dường như ít phát triển kháng thuốc hơn giun ở những động vật nhai lại;
-Tần suất dùngthuốc IVM không thay đổi như luân phiên dùng các thuốc khác cũng được báo cáo song cũng dẫn đến phát triển kháng thuốc nhanh chóng ở loài H. contortus tại Nam Phi và New Zealand. Như vậy, tần suất và việc sử dụng liên tục một loại thuốc đơn thuần như ALB để phòng trị giun đường ruột ở người cũng sẽ gia tăng các vấn đề liên quan đến kháng. Sự kháng thuốc nhóm BZ lan rộng ở loài giun tròn trên gia súc được chứng minh, nênkhả năng KTGS trên người tại sao lại không, nếu vậy chiến lược giống nhau là có thể áp dụng trên người, không có lý do gì mà các vấn đề tương tự như vậy lại không xảy ra trên người;
-Mặc dù mục tiêu ban đầu của những chiến lược phòng chống sán máng và giun sán nói chung dựa vào thuốc có làm giảm và phòng bệnh ở người, nay thuốc lại giúp cho phòng chống và thậm chí giảm lan truyền bệnh, nên phạm vi dùng càng áp dụng rộng hơn và lượng thuốc dùng sẽ nhiều và càng rõ vì 2 lần điều trị IVM/ năm cho mỗi giai đoạn ít nhất 10 năm được khuyến cáo để làm giảm lan truyền bệnh giun chỉ O. volvulus trên người cũng đủ gây KTGS. Tại các quốc gia như Ai Cập, điều trị cộng đồng nhiễm sán máng chủ động bằng thuốc PZQ hơn một thập niên qua, thậm chí điều trị tăng cường cũng cho biết được tương lai như thế nào.
3.Điều trị nhóm đích và thời điểm điều trị hàng loạt
-Điều trị dự phòng hàng loạt ở những vật nuôi dĩ nhiên sẽ góp phần vào việc lan rộng KTGS. Dù không sẵn có số liệu từ nghiên cứu thực nghiệm, mô hình cũng chỉ ra phát triển kháng chậm lại khi 20% số trong đàn không được điều trị. Hướng này chắn chắn rằng thế hệ và dòng con của giun sống sót sẽ không chỉ là những con giun kháng thuốc;
-Trong phòng chống giun sán ở gia súc, thường người ta chuyển gia súc đến các đồng cỏ sạch sau khi điều trị hàng loạt hoặc có kế hoạch quản lý điều trị trong những mùa khô là một biện pháp thực hành thường quy để giảm đi tình trạng tái nhiễm nhanh chóng. Tuy nhiên, các hoạt động này dẫn đến thế hệ giun sán tiếp theo là lượng giun sán sống sót sau điều trị và do vậy có thể góp phần gây nên kháng thuốc tiềm tàng. Chẳng hạn, Coles và cs báo cáo những vấn đề liên quan đến KTGS ở cừu và dê trên đảo của Hy Lạp, nơi đó chịu hạn hán kéo dài; ngược lại, không có tình trạng KTGS dưới điều kiện quản lý giám sát và sổ giun tương tự ở vùng đất liền;
-Ngược với vật nuôi, đặc biệt nơi gần 100% động vật trong đàn gia súc được điều trị, sự chấp thuận điều trị hàng loạt thường ít hơn 80% khi điều trị trên người (do vắng mặt, đau yếu, không quan tâm đến vấn đề hoặc chống chỉ định ở phụ nữ mang thai) và cứ thế sự chấp thuận giảm hơn sau khi một vài đợt điều trị đầu tiên, nếu như thế thì nó giảm đi tỷ lệ bệnh;
-Quần thể thường không ổn định và có thể do láng giềng hoặc dòng người tràn vào một nơi nào đó làm ăn sinh sống. Điều trị thời điểm mùa khô (giai đoạn lan truyền bệnh thấp) đã đựợc đề nghị. Trong một số vùng của Trung Quốc, điều trị đồng thời cho người và gia súc với hy vọng làm giảm lan truyền bệnh;
-Người ta cũng nghĩ rằng những yếu tố từ con người sẽ làm chậm xuất hiện và lan rộng KTGS. Tuy nhiên, nếu điều trị thường xuyên tập trung nhóm lứa tuổi học đường là chủ yếu (nhiễm giun đường ruột) hoặc cộng đồng được cách ly rồi kiểm soát tốt tình hình lan truyền này ở hệ sinh thái sẽ đóng vai trò tốt và nguy cơ KTGS sẽ giảm.
4. Dùng thuốc không đủ liều hoặc dưới liều điều trị
-Dùng thuốc dưới liều (DTDL) điều trị được xem là một yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành nên kháng thuốc, vì liều dùng thấp dưới liều điều trị (subtherapeutic doses) dẫn đến sự sống sót giun sán;
-Một vài thử nghiệm cũng như nghiên cứu tại thực địa cho biết DTDL góp phần tạo ra lựa chọn kháng hoặc tạo ra dòng dung nạp. Qua nhiều nghiên cứu về dược động học cho biết sinh khả dụng thuốc BZ và LEV ở dê thấp hơn ở cừu khi điều trị, nên những con dê đó phải được điều trị với liều gấp 1.5-2 lần so với liều mà chúng ta điều trị cho cừu. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, dê và cừu lại cho điều trị cùng liều nhau, nên sự thật KTGS ở dê lan rộng và tần số kháng cao là một hậu quả tất yếu;
-Các mô hình gần đây cho thấy tình trạng ở thực địa không hề đơn giản. Lệ thuộc vào tần số các allele kháng ban đầu và có thể có một khoảng liều nhất định thúc đẩy kháng thuốc và khoảng liều dùng tại đó nó cản trở quá trình kháng thuốc;
-Mặc dù các nghiên cứu bổ sung về tác động của sử dụng dưới liều lên sự hình thành kháng thuốc là cần thiết, những kiến thức hiện tại đưa ra lời khuyên chống lại sử dụng liều thấp hơn liều chữa khỏi (subcurative dosages). Để giảm chi phí cho các chiến dịch điều trị giun sán tại các quốc gia đang phát triển, thì việc sử dụng liều thấp hơn liều điều trị được khuyến cáo được ủng hộ cho quan điểm này. Khía cạnh thực hành lâm sàng này nên được làm rõ để tránh kháng thuốc. Như trên cho thấy, hầu hết các thuốc giun sán được dùng hiện nay đều thấp dưới liều điều trị ở ít nhất một phần nào đó trong quần thể. Điều này được chấp nhận vì kiểm soát được tỷ lệ bệnh, nhưng rốt cuộc/kết quả của nhưung chiến lược như thế là có thể góp phần vào sự phát triển sự hình thành kháng thuốc;
-DTDL ở người xảy ra phổ biến ở nhiều nước đang phát triển, thuốc được phân phối hoặc dùng chỉ 1/2 liều hoặc ít hơn vì gia đình nghèo. Sản phẩm thuốc gốc có chất lượng kém, đóng gói lại hoặc chế tạo lại nhãn và công thức thuốc do thuốc quá hạn sử dụng lại lưu hành rộng rãi trên thị trường ở các pharmacie. Cũng như vậy, sự có mặt của các thuốc kém chất lượng, đặc biệt thuốc kháng sinh và thuốc giun sán được sản xuất số lượng lớn bởi những công ty không được cấp phép trên toàn thế giới và nghịch lý công tác kiểm tra chất lượng thuốc hiện đang còn thiếu.
Cơ chế kháng thuốc của nhóm Benzimidazole (BZ)
Cơ chế kháng thuốc được biết rõ nhất là nhóm BZ, thông tin chi tiết nói về cơ chế khángcủa giun móc/ mỏ ở người kháng với thuốc nhóm BZ còn hạn chế, nhưng các nhà ký sinh trùng thú y đã nghiên cứu kháng thuốc BZ. Hoạt tính của nhómBZ tác động nhờ sự gắn kết phân tử β-tubulin, can thiệp vào sự tổng hợp polymer hóa phân tử vi ống. Vài tác giả cho rằng có một tính đa hình của gen phân tử β-tubulin trong tính nhạy cảm với quần thể H. contortus:
-Roos và cs chứng minh sự lựa chọn kháng với BZ là một sự khiếm khuyết alleles ở locus của β-tubulin isotype1; Kwa và cs trình bày kháng với BZ có liên quan đột biến bảo tồn ở acide amin 200 trên phân tử β-tubulin isotype 1 (Phe đựợc thay bằng Tyr);
-Sự đột biến giống nhau xảy ra ở nấm kháng BZ như Aspergillus nidulans và Venturia inaequalis. Thay thế các acide amine là có sự dị hợp phân tử β-tubulin isotype 1. Ngược lại, khi Phe được thay bằng Tyr ở vị trí 200 của gen này nhờ cơ chế sinh đột biến gen nên khi đó hoạt tính đảo ngược;
-Một cơ chế kháng thuốc thứ 2 được xác định trên một vài quần thể H. contortus cho thấy mức độ kháng cao hơn và trong đó có một sự cắt phân tử β-tubulin isotype 2 locus:
+Beech không thể xác định điều này trong các quần thể H. contortus khác. Những tác giả này cũng cho biết thay đổi trên tần suất allele hơn là sự tái sắp xếp do tiếp xúc với thuốc làm thay đổi liên quan đến kháng BZ. Một sự lựa dòng kháng với BZ theo hình bậc thang cũng xảy ra đối với quần thể KST Trichostrongylus colubriformis và Ostertagia circumcincta;
+Kerboeuf báo cáo về P-glycoproteins (P-gp) đóng vai trò trong kháng BZ ở H. contortus. P-gp liên quan đến đa kháng thuốc ở các tế bào u của đông vật có vú, Leishmania và Plasmodium và trong kháng với hợp chất độc tố ở C. elegans. Rhodamine 123, một đầu dò mang P-gp, liên quan đến tác nhân đảo ngược verapamil (một protein liên quan đến đa kháng thuốc ức chế), cho phát quang trong trứng của H. contortus kháng thuốc BZ một cách ý nghĩa và IVM hơn trong những trứng nhạy; những kết quả này có được qua các thử nghiệm sinh học thuốc chống giun sán và verapamil và làm tăng khả năng tràn dòng lệ thuộc P-gp trong trứng của giun tròn;
+Kwa và cs sử dụng đầu dò P-gp từ ký sinh trùng H. contortus, không thể liên quan đến tính đa hình của bất kỳ kháng thuốc hoặc đa kháng thuốc nào được kiểm tra ở các quần thể H. contortus khác nhau, nhưng đáng chú ý DNA được dùng ở đây tách chiết từ ấu trùng giai đoạn 3 của giun sán mà không phải từ một ký sinh trùng riêng biệt nào, vì thế không ước đoán tần số allele có thể làm ra.
Vì tính kháng đặc biệt của nhóm BZ dường như do đột biến điểm tương tự nhau trên một số loại nấm và giun tròn có tầm quan trọng trong lĩnh vực thú y, người ta không thể quy kết là có liên quan đến kháng trên người ở các loài giun tròn. Vì các phân tử giống nhau được sử dụng trong nghiên cứu y học thú y và trên người, điều đó sẽ rất có ích để phát hiện hoặc tìm kiếm sự có mặt một hay nhiều đột biến điểm ở loài giun sán trên người.
Cơ chế kháng thuốc Levamisole
-Levamisole và những thuốc chống giun sán liên quan như PP và Morantel là các chất đối vận cholinergic với tác động lựa chọntrên các receptor của giun tròn. Cơ chế kháng của levamisole chưa được biết thấu đáo;
-Sangster đã tổng hợp hoàn toàn đặc tính dược học của kháng LEV. Người ta cho rằng nguyên do có thể hoặc là giảm số lượng các receptor của nicotinic acetylcholinesterase hoặc giảm tính tương đồng về cấu trúc của các receptor này đối với thuốc;
-Hoekstra và cộng sự có thể dòng hóa gene Hca 1, mã hóa cho receptor của nicotinic acetylcholinesterase từ H. contortus. Mặc dù tính đa hình ở mức độ a.a có thể làm rõ điều này, các tác giả này khonog thể tìm thấy bằng chứng rằng các alleles ở vị trí locus đó có liên quan sự lựa chọn kháng thuốc vớiLEV. Một gen tương tự là tar-1 được xác định trên nhiễm sắc thể X trong loàiT. colubriformis. Tuy nhiên, mặc dù sự so sánh có tính thống kê của nhiều tần số allele từ những con giun cái và giun đực riêng lẻ phù hợp với liên kết giới tính của tar-1, không thấy mối liên quan nào tìm thấy có kháng LEV.
Một cách rõ ràng, kinh nghiệm và thử nghiệm trong lĩnh vực thú y có liên quan chặt chẽ khi nghiên cứu trên người. Sự hiện diện của các dòng dung nạp với các thuốc điều trị giun sán ở bất kỳmột quần thể KST nào, những nghiên cứu về sinh học và phép ngoại suy thống kê cho tỷ lệ của những thuốc chống giun sán kháng bẩm sinh thường lớn hơn tỷ lệ phần trăm có thể (10 2), không phải 10 3 hoặc ít hơn như chúng ta suy nghĩ trước đây. Hầu như tất cả chiến lược được đề nghị nhằm phòng chống bệnh giun sán trên người dựa trên tiếp cận một thuốc duy nhấtkhông có thuốc phối hợp hoặc sử dụng luân phiên và một tần số tối thiểu là 1lần/ năm là quá dài. Mặc dù tình hình gia súc khác so với con người và kết quả hoặc các khuyến cáo không thể ngoại suy một cách tự động cho rằng về tính chất sinh học, dịch tễ học và dược lý học là hoàn toàn tương tự. Việc nghiên cứu nên tập trung vào di truyền học tương đồng các kiểu hình liên quan với kháng thuốc trên gia súc và trên người.
Làm thế nào để phát hiện sớm kháng thuốc?
-Thử nghiệm đếm trứng giảm đi trong phân (FECRT_Fecal egg count reduction test);
-Nhóm nghiên cứu - nhóm chứng cùng một nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp;
-Các thử nghiệm tại labô để phát hiện KTGS trên gia súc
§Thử nghiệm nở trứng (EHT_Egg hatch test)
§Thử nghiệm phát triển ấu trùng (LDA_Larval development assay)
§Thử nghiệm làm bất động ấu trùng (Larval motility or paralysis test)
§Kỹ thuật sinh học phân tử PCR