Ký sinh trùng kháng với nhiều loại thuốc sốt rét, kể cả các thuốc có hiệu lực cao như artemisinine, mefloquine ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả điều trị sốt rét tại các cơ sở y tế và chính sách thuốc tại mỗi quốc gia cũng nhưphạm vi toàn cầu. Các thông tin về sốt rét kháng thuốc là hết sức quan trọng giúp các nhà chuyên môn và quản lý đưa ra các giải pháp ngăn chặn sự phát triển kháng thuốc phù hợp, kịp thời nhằm làm giảm gánh nặng sốt rét.
Sốt rét là một căn bệnh truyền nhiễm thông qua muỗi truyền. Bệnh hiện đang lưu hành tại 10 quốc gia vùng Tây Thái Bình Dương (Western Pacific Region) với mô hình và các yếu tố quyết định khác nhau có ý nghĩa. Kế hoạch hành động của vùng về phòng chống và loại trừ sốt rét ở Tây Thái Bình Dương (Regional Action Plan for Malaria Control and Elimination in the Western Pacific) giai đoạn 2010 – 2015 đã được xác nhận bởi Hội đồng vùng vào năm 2009 với các biện pháp can thiệp rõ ràng. Tiến đến loại trừ sốt rét tại hầu hết các quốc gia có lưu hành đã có lộ trình. Tuy nhiên, lộ trình này vẫn còn nhiều thách thức lớn với hánh nặng sốt rét còn cao tại một số quốc gia. Trong bối cảnh sốt rét do P. vivax tương đối tăng đã được xác định tại hầu hết các quốc gia lưu hành và nhiểu ổ mới phát hiện kháng artemisinin do P. falciparum ngày thêm phát hiện. .
Ký sinh trùng kháng thuốc sốt rét có hiệu lực cao
Điều trị sốt rét sớm
Phòng chống sốt rét dựa vào phòng chống vector muỗi truyền bệnh bằng cách loại bỏ ổ muỗi đẻ, sử dụng thuốc/ hóa chất diệt côn trùng và phòng bệnh cá nhân với các màn tẩm hóa chất và lưới trong nhà và quản lý ca bệnh hiệu quả sớm. Các thuốc sốt rét như quinine, chiết xuất từ vỏ cây cinchona có lịch sử sử dụng lâu dài từ thế kỷ 17. Cho đến gần đây, dẫn chất CQ được sử dụng rộng rãi trong điều trị và dự phòng bệnh sốt rét.
Việc đưa ra giới thiệu vào những năm sau thế kỷ 20 gồm có thuốc proguanil, sulfadoxine-pyrimethamine (SP), amodiaquine, mefloquine và atovaquone.
Kháng thuốc xuất hiện
Thuốc sốt rét gồm các loại thuốc thường được sử dụng trong các vùng nhiệt đới, gần đây đã làm gia tăng áp lực thuốc rất lớn lên quần thể KST đến biểu hiện kháng thuốc. Đặc biệt, với sốt rét do P. falciparum, kháng thuốc là một thành tố góp phần dẫn đến sự quay trở lại của SR trong vòng 3 thập niên qua, làm tăng tỷ lệ tử vong trẻ do SR gấp đôi tại các vùng Đông và Nam châu Phi.
P falciparum kháng với CQ lần đầu tiên xuất hiện vào cuối những năm 1950 tại Đông Nam Á và lan rộng ra các vùng kháng của châu Á và rồi đến châu Phi trong 30 năm tiếp theo. Dựa trên các ấn bản báo cáo, kháng với SP có nguồn gốc từ các vùng giống nhau của Đông Nam Á, lan rộng thậm chí rất nhanh đến khu vực châu Phi. Kháng thuốc CQ và SP xuất hiện không lệ thuộc vào hay hoàn toàn độc lập với vùng Amazon của châu Mỹ Latinh và sau đó lan rộng khắp lục địa. Kháng thuốc mefloquine xuất hiện ở Thái Lan, Campuchia và Việt Nam – các quốc gia nơi đã sử dụng rộng rãi thuốc này trong vòng 5 năm kể từ khi đưa ra giới thiệu vào những năm 1990.
Ngược lại do kháng cao tại các quốc gia có lưu hành sốt rét, nên CQ bị loại khỏi danh mục thuốc điều trịcho SR P. falciparum, CQ chỉ còn dùng điều trị cho SR P. vivax và một số loài Plasmodium khác gây bệnh ở người như P. ovale, P. knowlesi, P. malariae. Tuy nhiên, tiếp cận này nằm trong mối đe dọa có nguy cơ xuất hiện và lan rộng kháng thuốc CQ bởi các chủng KSR. Ca bệnh đầu tiên SR do P. vivax kháng với CQ được báo cáo năm 1989, gần 30 năm sau có báo cáo về P. falciparum kháng CQ. Tâm điểm của P. vivax kháng CQ là tại đảo New Guinea, nhưng giờ đây bằng chứng về hiệu lực CQ chống lại P. vivax đang giảm dần ở nhiều vùng nơi mà P. vivax lưu hành.
Đưa thuốc Artemisinin vào sử dụng
Kể từ năm 2001, WHO đã khuyến cáo sử dụng thuốc phối hợp có thành phần artemisininetrong điều trị SR chưa biến chứng. Khuyến cáo điều trị thuốc phối hợp này gọi là Artemisinin Combination Therapies_ACTs trên cơ sở phối hợp một thuốc dẫn chất artemisinin tác dụng nhanh với một thuốc tác dụng chậm hơn như lumefantrine, amodiaquine, mefloquine, piperaquine, pyronaridine hoặc sulfadoxine/pyrimethamine. Kháng thuốc artemisinin đặc trưng bởi sự làm sạch KST chậm trong máu sau điều trị lần đầu tiên báo cáo tại Đông Nam Á, thời gian này tại vùng biên giới Thái Lan – Campuchia năm 2006. Gần đây, các KST bị làm sạch chậm hơn đã được phát hiện tại phía Tây Thái Lan gần biên giới với Myanmar, dọc theo biên giới Myanmar – Trung Quốc và Việt Nam.
Kháng thuốc Artemisinin tại châu Phi và châu Mỹ Latin?
Hiện tại, chưa có báo cáo nào xác định kháng thuốc ở châu Phi hay châu Mỹ Latin, nơi mà các biện pháp phòng chống và dự phòng đang gia tăng làm giảm gánh nặng bệnh tật có ý nghĩa tại nhiều vùng trong 10 năm qua. Tuy nhiên, các thành quả này rất mong manh và tất cả yếu tô nguy cơ để cho hình thành kháng thuốc đều có tồn tại ở cả hai châu lục này.
Một số yếu đó gồm có sử dụng thuốc kém chất lượng, sử dụng thuốc đơn trị liệu nhiều hơn là dùng thuốc phối hợp, sử dụng dưới liều và chậm trong khâu tiếp cận điều trị. Du lịch bằng đường hàng không từ Đông Nam Á luôn luôn gia tăng, đưa nhiều người đi hơn và kể cả các dân di biến động và nhất là mang mầm bệnh không biểu hiện triệu chứng (asymptomatic disease carrier)đến các vùng lưu hành từ các vùng vốn đã có kháng thuốc. Mạng lưới vùng châu Phi thiết lập nhiều năm qua một hệ thống giám sát phát hiện kháng thuốc theo mục tiêu thiên niên kỷ. Sự xác định và ngăn chặn thành công kháng thuốc sẽ lệ thuộc vào sự phối hợp, kinh phí đầy đủ và hỗ trợ của các kết hợp vùng, liên vùng và toàn cầu.
Các báo cáo gần đây về kháng với dẫn chất artemisinin cho thấy một mối đe dọa nghiêm trọng đến các nổ lực toàn cầu để phòng chống và loại trừ sốt rét. Kế hoạch ngăn chặn kháng Artemisinine toàn cầu của Tổ chức y tế thế giới (The WHO Global Plan for Artemisinin Resistance Containment_GPARC) là một kêu gọi hành đọng dừng kháng artemisinin tại gốc bằng cách ngăn ngừa hoặc ít nhất phải trì hoãn sự lan rộng ra thêm. Sự thành công sẽ lệ thuộc vào các nổ lực toàn cầu để xác định bản chất và phạm vi rộng của vấn đề, rồi thì can thiệp các biện pháp y tế phù hợp để giảm lan rộng và tác động KST kháng thuốc.
Đinh nghĩa hay xác định kháng thuốc
Một hàng rào hay khó khăn chính trong cuộc họp về thách thức kháng artemisinin đang đạt đến thỏa thuận ra định nghĩa – khó vì thuốc artemisinin thường quy sử dùng trong phối hợp với một thuốc có tác dụng kéo dài. Đáp ứng lâm sàng trên các bệnh nhân sốt rét điều trị bằng ACTs phản ánh hiệu lực của cả hai thành phần trong viên phối hợp. Hoạt tính giảm của các dẫn chất artemisinin có thể bị nguy trang tại các vùng nơi mà các thuốc đi kèm vẫn phát huy hiệu lực cao. Tại những vùng nơi mà kháng với các thuốc đi cùng (partner drug) đang xuất hiện, thì nhiễm trùng tái phát sớm có thể bị quy trách nhiệm sai trong kháng artemisinin. Một sự phức tạp thêm, một số người có thể có miễn dịch mắc phải từ các nhiễm trùng trước đó và đáp ứng tốt với thuốc ACTs, thậm chí nếu người mang KST kháng thuốc.
Vì chưa có một chỉ điểm phân tử cho kháng kháng thuốc artemisinin cũng không có một test nhạy cảm trên in vitro sẵn có, nên các nghiên cứu đánh giá hiệu lực thuốc vẫn là chuẩn vàng cho hướng dẫn thay đổi chính sách thuốc. Do đó, các biện pháp thường xuyên và chính xác đánh giá làm sạch KST P. falciparum rất cần thiết để đánh giá sự lan rộng kháng thuốc artemisinin. WWARN đã phát triển một công cụ mới là Ước tính sự làm sạch ký sinh trùng (Parasite Clearance Estimator hay gọi là PCE) cho phép các số liệu được phân tích trong một hướng chuẩn để so sánh với với sự làm sạch KST trên các bệnh nhân riêng lẻ và giữa các quần thể khác nhau. Chỉ số này không phải là một thử nghiệm đánh giá hiệu lực thường quy được khuyến cáo bởi WHO.
Hiệu lực thuốc và kháng thuốc sốt rét
Kháng thuốc sốt rét đã ngăn cản và làm trở ngại cuộc chiến PCSR và do đó nó là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng. Truy tìm một mô hình về hiệu lực thuốc SR là cần thiết để quản lý thích hợp các ca bệnh lâm sàng và để xác định ngưỡng đưa ra quyết định thay đổi chính sách thuốc SR quốc gia. WHO thường xuyên cập nhật các đề cương để đánh giá hiệu lực thuốc (hay là in vivo) của các thuốc SR. Do quá trình theo dõi dài hơn, nên phân tích về mặt di truyền để phân biệt tái phát và tái nhiễm (reinfection / recrudescence) có tính chất bắt buộc. WHO đã triển khai một chương trình phần mềm, thiết kế để hỗ trợ thu thập dữ liệu và phân tích và nâng cao chất lượng kết quả. WHO đang gom các cơ sở dữ liệu của các kết quả TES từ năm 1996 trở về sau này và các kết quả phân loại theo từng quốc gia và theo từng thuốc, cập nhật thường xuyên và dều đặn.
Để xác định kháng thuốc, các công cụ khác cũng cần thiết như đánh giá trên in vitro, các nghiên cứu về đột biến gen hoặc khuếch đại gen liên quan đến kháng thuốc và/ hoặc đo lường nồng độ thuốc SR. Các phương pháp in vitro thường được sử dụng nhất là in vitro micro-test Mark III, isotopic test, đánh giá độ nhạy dựa vào đo HRP2/hoặc pLDH/ trong ELISA và SYBER green test. Các chỉ điểm phân tử của kháng do P. falciparum sẵn có chỉ đối với một vài thuốc (chloroquine, mefloquine, pyrimethamine, cycloguanil, sulfadoxine, atovaquone), trong khi đó các thuốc khác vẫn chưa có ngưỡng xác định.
Kháng thuốc đã lan rộng?
Các thử nghiệm lâm sàng, nghiên cứu về tình hình kinh tế xã hội, dược động học, lâm sàng và sinh học phân tử theo chương trình Tracking Resistance to Artemisinin Collaboration (TRAC) truy tìm kháng artemisinin tại 13 điểm khắp châu Á và hai điểm tại châu Phi. Mục đích là xác định xem có hay không KST kháng thuốc ACTs đằng sau sự lan rộng tại hai điểm kháng artemisininxác định tại vùng biên giới giữa Campuchia và Thái Lan và Thái Lan - Myanmar. Một trung tâm WWARN-managed Specimen Management Centre ở đại học Mahidol, Thái Lan đang lưu trữ các mẫu lâm sàng từ nghiên cứu TRAC.
Một hội đồng nghiên cứu về các chỉ điểm phân tử Molecular Markers Steering Committee, đứng đầu là giáo sư Christopher Plowe, trưởng nhóm WWARN Molecular Group, khuyên nên phân bố mẫu để nghiên cứu thêm.
Chỉ điểm phân tử về kháng thuốc sốt rét
Các chỉ điểm phân tử kháng thuốc của nhiều loại TSR cũng cấp các công cụ tiềm năng để giám sát tính nhạy của thuốc. Các giám sát viên phân tử của WWARN tổng hợp các số liệu đã được ấn bản có sử dụng các chỉ điểm phân tử (molecular markers), nhất là ban đầu tập trung vào kháng sulphadoxine pyrimethamine (SP) tìm thấy đối với gen P. falciparum dhfr và dhps.
Mặc dù các các nhà khoa học đã xác định vùng chromosome 13 trên bộ gen P. falciparum cho thấy có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ làm sạch KSTSR chậm trong đáp ứng điều trị bằng ACTs, tuy là một marker hợp lệ, chẩn đoán nhưng chưa xác định. Một khi các marker phân tử này được xem là xác định được thì WWARN sẽ phối hợp với nhóm đối tác sẽ làm rõ tính hợp lệ của sự giả định này đối với chỉ điểm kháng artemisinin và đưa ra các thử nghiệm phân tử đơn giản để đánh giá kháng thuốc trên các mẫu thực địa toàn cầu.
Lumefantrine và amodiaquine là các thuốc đi cùng có thời gian sống dài (long-lived partner) phối hợp với artesunate trong hai phối hợp thuốc ACTs đã được sử dụng phổ biến nhất là artemether - lumefantrine và artesunate - amodiaquine. Do đó, điều quan trọng là giám sát kháng thuốc với các thuốc đi cùng với artemisinine này.
Như một bước đầu tiên, nhóm WWARN Molecular Group đang hỗ trợ phân tích một bộ số liệu chung để thiết lập ra các ứng cử viên pfcrt và pfmdr1 markers đối với kháng amodiaquine và lumefantrine đóng vai trò trong biểu hiện kháng lâm sàng.
Tác động của liều thuốc không đủ trong các phân nhóm quần thể rất quan trọng
Thất bại điều trị có thể do từ khâu phơi nhiễm thuốc không đầy đủ hơn là kháng thuốc do KST. Ngoài ra, để chữa khỏi SR, nồng độ thuốc trong máu đủ là một cốt lõi để tránh chọn lọc thuốc do KST kháng do phơi nhiễm với một nồng độ thuốc dưới liều tối ưu để giết các chủng nhạy, chứ chưa nói đến chủng kháng thuốc.
Thuốc SR được cấp phép với liều thấp nhất để vừa an toàn và vừa hiệu quả. Quyết định này dựa vào các nghiên cứu cần thiết nhưng vẫn còn giới hạn về cỡ mẫu và quần thể nghiên cứu. Điều chấp nhận rộng rãi các nồng độ thuốc trong máu thay đổi khác nhau giữa các phân nhóm quần thể, bao gồm trẻ em nhỏ, trẻ em và phụ nữ mang thai – là các nhóm thuộc gánh nặng cao nhất của SR. Sự khác nhau trong nồng độ TSR trong máu, đặc biệt trên các phân nhóm quần thể dễ bị tổn thương (hoặc những người béo phì, người dùng thuốc kém chất lượng hoặc thất bại hoàn toàn điều trị) có thể do phơi nhiễm với thuốc không đủ liều và do đó làm tăng thêm nguy cơ thất bại điều trị và KSTSR kháng chọn lọc. Sự góp phần của phơi nhiễm thuốc không đầy đủ dẫn đến nguy cơ thất bại điều trị có thể nhìn thấy trong phần WWARN Explorer/Pharmacology.
WWARN đang hỗ trợ phân tích một số số liệu chung để xác định tác động và đo nồng độ của các thuốc đi cùng lumefantrine, amodiaquine và sulfadoxine/pyrimethamine đối với hiệu quả trên lâm sàng. Phân tích có thể xác định thêm các yếu tố bệnh nhân gây ra sự thay đổi trong vấn đề dược học của thuốc đi cùng đủ để gây ra giảm hiệu lực thuốc ACTs (hay độ an toàn) hay không?
Chất lượng thuốc sốt rét kém
Thuốc SR chất lượng kém khong chứa đủ hàm lượng hoạt chất hoặc không có thành phần dẫn chất artemisinin đe dọa đến sức khỏe bệnh nhân. Thuốc kém chất lượng chứa liều thuốc ít hơn không phù hợp cho bệnh nhân, nên điều này có thể cho phép chủng KST kháng sống sót, dẫn đến phát triển và lan rộng kháng. WWARN đã đưa ra các hiểu biết tốt nhất về tác động cũng như tầm ảnh hưởng của thuốc kém chất lượng lên PCSR thông qua nhóm chuyên trách Antimalarial Quality (AQ) Group. Thuốc giả và thuốc kém chất lượng được biết là các vấn đề quan trọng ở châu Phi trước khi triển khai ACTs điều trị BNSR. Một nghiên cứu gần đây hơn đã xác định sử dụng liệu pháp đơn trị liệu thuốc giả artemisinin, ACTs và halofantrine trong một số mẫu nghi ngờ thu thập được từ 8 trong số 11 quốc gia châu Phi. Tình trạng này không phải là duy nhất ở lục địa châu Phi này với các bằng chứng tương tự đã từng xảy ra tại Đông Nam Á.
Sự nhầm lẫn về định nghĩa thuốc kém chất lượng và tính phức tạp trong đánh giá phạm vi vấn đề tại nhiều nơi đang gây ra sự trì hoãn trong nhận định và chấp nhận với vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng.
Kháng thuốc artemisinin
Vào tháng 2.2009, WHO xác định kháng artemisinin đã xuất hiện tại khu vực biên giới Thái Lan - Campuchia. Mặc dù các bệnh nhân nhiễm được chữa khỏi sau khi điều trị bằng thuốc phối hợp có gốc artemisinin (ACTs), song sự phục hồi kéo dài thời gian hơn. Các vùng kháng artemisinin, tỷ lệ chữa khỏi cao được quan sát lệ thuộc vào hiệu lực của thành phần thuốc đi cùng không phải artemisinin trong phối hợp đó. Tuy nhiên, các báo cáo tìm thấy rằng thuốc ACTs hiện đang được khuyến cáo sử dụng bởi các Chương trình QGPCSR vẫn duy trì hiệu lực trong điều trị SR, với tỷ lẹ chữa khỏi nói chung cao hơn 90%. Tại các quốc gia hiện đang khuyến cáo dùng ACTs có tỷ lệ chữa khỏi < 90%, thay đổi chính sách thuốc là việc đang tiếp tục để thiết lập một liệu trình điều trị thay thế.
Sự nảy sinh kháng artemisinin tại biên giới Thái Lan – Campuchia đã làm thức tỉnh và kêu gọi thế giới ngăn chặn sự lan rộng, tăng cường giám sát và bảo tồn ACTs vì đây là thuốc điều trị SR do P. falciparum có hiệu quả duy nhất đến nay - Robert Newman, giám đốc Chương trình Sốt rét toàn cầu của WHO cho biết, các hành động tức thời sẽ là tiến trình bảo tồn và duy trì PCSR cũng như đạt được các mục tiêu thiên niên kỷ liên quan đến sức khỏe.
Tại sao kháng artemisinin xảy ra?
Các nhà khao học tiếp tục điều tra làm thế nào và tại sao nảy sinh vấn đề đặc biệt kháng artemisinin. Nhìn chung, kháng thuốc SR lần đầu tiên xuất hiện thông qua sự thay đổi tự bản bên trong KSTSR. Tiếp sau đó là khả năng của chủng kháng thuốc để cho KST sống sót và lan rộng có thể bị ảnh hưởng do nhiều yếu tố, bao gồm việc sử dụng các thuốc kém chất lượng, liệu pháp đơn trị liệu.
Tuy nhiên, điều rõ ràng nếu hiệu lực của thành phần artemisinin tiếp tục giảm, sẽ có tăng nguy cơ mà kháng với các thuốc đi cùng không phải artemisinin sử dụng trong phối hợp đó sẽ xuất hiện. Hiện tại các nổ lực nghiên cứu đang tiếp tục khám phá và phát triển thuốc mới để điều trị SR.
Trong đáp ứng với các phát hiện trong báo cáo này, WHO đang cùng với các đối tác trong kế hoạch ngăn chặn kháng artemisinine toàn cầu (Global Plan for Artemisinin Resistance Containment) được triển khai năm 2011. Vào ngày Sức khỏe thế giới 2011, WHO đã phát động một chiến dịch nâng cao nhận thức công chúng về kháng thuốc chống vi trùng và khả năng lan rộng toàn cầu của chúng, kêu gọi chính phủ và các bên liên quan thiết lập chính sách và thực hành cần để bảo vệ hiệu quả thuốc cũng như thế hệ tương lại.
WHO kêu gọi các quốc gia có SRLH tăng cường giám sát hiệu lực thuốc sốt rét
Ngày 18 tháng 11 năm 2010, WHO kêu gọi các quốc gia cần thận trọng và cảnh giác trong giám sát hiệu lực thuốc sốt rét để cho phép phát hiện sớm kháng thuốc artemisinin. Đây là một trong số kết luận trong Báo cáo toàn cầu về hiệu lực thuốc sốt rét từ 2000-2010 (Global report on antimalarial drug efficacy and drug resistance: 2000–2010). Báo cáo này dựa trên 1100 nghiên cứu tiến hành bởi các Chương trình QGPCR và các viện nghiên cứu qua 10 năm.
Các báo cáo ước tính chỉ có 34% quốc gia có LHSR phối hợp làm theo với WHO khuyến cáo giám sát hiệu lực thuốc thường quy đánh giá hiệu lực thuốc ưu tiên một và ưu tiên hai (first- and second-line antimalarial medicines). "Một nhiệm vụ chính trị lớn hơn để hỗ trợ và duy trì giám sát hiệu lực thuốc của quốc gia là làm thế nào phải ngăn chặn sự xuất hiện hay nảy sinh kháng thuốc artemisinin” Tiến sĩ Pascal Ringwald của đơn vị Ngăn chặn và nghiên cứu kháng thuốc từ Chương trình Sốt rét toàn cầu và là một trong số các tác giả báo cáo cho biết.
Giải pháp ngăn chặn ký sinh trùng sốt rét kháng artemisinine
Ngăn chặn sự lan rộng kháng thuốc artemisinin
Các nổ lực ngăn chặn sự lan rộng kháng artemisinin tại khu vực biên giới Thái Lan – Campuchia đã và đang diễn ra kể từ tháng 11.2008. tuy nhiên, có một số bằng chứng sớm về kháng artemisinins có thể cũng đang xuất hiện tại biên giới Thái Lan - Myanamr. Cũng có mối quan tâm về kháng có thể lan rộng từ biên giới Thái Lan - Campuchia sang châu Phi như đã từng xảy ra đối với CQ và SP vào những năm 1960 và 1970.
Kháng thuốc sốt rét cũng giống như một bệnh ung thư, nó phải có ý chí quyết tâm ở mỗi cấp độ, các quốc gia bị ảnh hưởng cần phải đứng đầu mặt trận chống lại sự xuất hiện kháng thuốc. WHO nên trao quyền và hỗ trợ để các nơi hành động. Cần thiết quyết định bảo vệ ACTs vì chúng là liệu pháp điều trị tốt nhất cho hàng triệu người mắc SR – giáo sư Nicholas J White của Đơn vị nghiên cứu Mahidol-Oxford Research Unit, Bangkok, Thái Lan.
Kể từ năm 1973, WHO đã hỗ trợ các Chương trình QGPCSR giám sát kháng thuốc nhờ vào cập nhật thường xuyên đề cương đánh giá hiệu lực thuốc chuẩn, hỗ trợ và phối hợp trong việc chọn, phân tích và báo cáo số liệu và thúc đẩy sử dụng các thử nghiệm phù hợp cần thiết để xác định kháng thuốc.
Dự án ngăn chặn sốt rét kháng thuốc Artemisinin
Liệu pháp ACTs được thiết kế theo dạng thuốc phối hợp của hai loại thuốc có hiệu quả với hai cơ chế tác động khác nhau và được xem là dạng thuốc có khả năng bảo tồn và duy trì tính năng các loại thuốc khác nhau trong nhiều năm. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong những năm gần đây xác định kháng artemisinin đã xảy ra tại biên giới Thái Lan – Campuchia.
Để đáp ứng với tình huống nguy hiểm này, WHO đã liên kết với các lực lượng từ Bộ Y tế Campuchia và Thái Lan và các đối tác khác để phát triển một dự án ngăn chặn, thậm chí cuối cùng là loại trừ kháng artemisinin tại khu vực biên giới này. Sự phát triển này đã cảnh báo các nhà chức trách y tế như đã từng xảy ra kháng với thuốc chính CQ ở vùng biên giới này, sau đó lan rộng đến châu Phi, gây nên một loạt ca tử vong trên toàn cầu. Nếu điều này xảy ra với thuốc có artemisinin, thế giới sẽ mất đi liệu pháp điều trị tối ưu nhất chống lại SR này.
Liệu pháp nào điều trị sốt rét tốt nhất? Tại sao phải phối hợp thuốc
Sốt rét gây ra bởi loài KST Plasmodium spp. Trên hầu hết các nơi trên thế giới, loài Plasmodium falciparum là loài hay gây tử vong cao nhất và xuất hiện đa kháng thuốc. Đây là sử dụng thuốc đơn trị liệu (monotherapy) của chloroquine, sulfadoxine-pyrimethamine, hoặc thuốc SR khác. WHO khuyến cáo các quốc gia sử dung thuốc phối hợp để giảm nguy cơ kháng thuốc, đặc biệt trì hoãn kháng và bảo vệ hiệu lực các thuốc Artemisinine và dẫn chất. WHO khuyến cáo thuốc phối hợp có chứa dẫn chất artemisinin, một chất thảo dược chiết xuất từ cây Thanh hao hoa vàng Artemisia annua vùng với các loại thuốc sốt rét khác. Các phối hợp thuốc này gọi là artemisinin-based combination therapies hay ACTs. ACTs hiện đang là thuốc điều trị hiệu quả nhất với tỷ lệ chữa khỏi 95% chống lại SR do P. falciparum.
Hơn năm năm qua, ACTs đã được triển khai sử dụng và gia tăng với số lượng lớn. ACTs có tiềm nằn chữa khỏi lâm sàng nhanh chóng và dung nạp thuốc tốt bởi bệnh nhân. Ngoài ra, ACTs có tiềm năng làm giảm lan truyền SR. Tổng số 80 quốc gia (45 trong số đó là châu Phi) chính thức dùng ACTs như ưu tiên một trị liệu SR. Mặc dù 13 trong số các quốc gia này chưa thực hiện đầy đủ tiếp cận dùng này nhưng các thuốc đã triển khai dùng với quy mô rộng.
Sốt rét do Plasmodium vivax là loại SR thường đứng thứ hai sau P. falciparum, cũng đáp ứng rất tốt với hầu hết thuốc ACTs. Tuy nhiên, nhiều quốc gia vẫn tiếp tục dùng CQ đẻ điều trị vì hầu hết vẫn còn nhạy với CQ để điều trị loài KST này.
Sốt rét đã giết đi khoảng một triệu người và làm ảnh hưởng khoảng 250 triệu người mỗi năm, hầu hết ở châu Phi. Chống SR là một vấn đề cấp bách và khẩn thiết của y tế công cộng. WHO thúc đẩy các công ty dược phẩm dừng quảng cáo các thuốc artemisinine dưới dạng đơn trị liệu vì điều này sẽ thúc đẩy tiến trình kháng thuốc. WHO khuyến cáo các công ty chỉ nên thương mại và kinh doanh các thuốc ACTs.
Những ấn phẩm mới nhất về kháng thuốc sốt rét
Kháng với thuốc SR đã là một trở ngại lớn cho PCSR và do vậy đây là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng. Các ấn bản của WHO về kháng thuốc trong SR mô tả tình trạng hiểu biết và quan tâm đến vấn đề này và các nội dung chiến lược về một sự kiện quan trọng, tính lan rộng và tăng thêm mối quan tâm về kháng thuốc sốt rét.