Ung thư (UT) hiện đang là một trong những nguyên nhân dẫn đầu về tử vong trên thế giới và tổng số ca trên toàn cầu vẫn đang tiếp tục gia tăng. Tại các quốc gia phát triển, ung thư là nguyên nhân đứng thứ 2 gây tử vong sau các bệnh lý về tim mạch và các bằng chứng dịch tễ học chỉ ra xu hướng đang nổi trội này và điều này cũng có phần đặc biệt liên đới đến sự chuyển dịch đến các quốc gia có thu nhập trung bình, như khu vực Nam Mỹ và châu Á và cụ thể hiện hơn ½ số ca ung thư đang xảy ra tại các quốc gia đang phát triển. Ung thư phổi vẫn là phổ biến hơn các loại ung thư khác và dự đoán sẽ tăng tiếp đến năm 2030, trừ khi các nỗ lực chống hút thuốc lá tác động mạnh và có hiệu quả đến cộng đồng. Một số ung thư thường gặp ở các quốc gia phát triển là ung thư vú, tuyến tiền liệt, đại tràng; trong khi đó ung thư gan, dạ dày và cổ tử cung lại thường gặp ở các quốc gia đang phát triển. Số tử vong ung thư toàn cầu theo ước tính sẽ tăng lên đến 45% từ năm 2007 đến năm 2030 (từ 7.9 triệu ca lên đến 11.5 triệu ca). Số ca mắc mới ước tính cũng tăng lên từ 11.3 triệu (2007) dự kiến đến 15.5 triệu (vào năm 2030).
Ung thư là một sự phát triển không thể kiểm soát và lan rộng của các tế bào, chúng có thể ảnh hưởng đến bất cứ bộ phận nào trong cơ thể. Sự phát triển thường xâm nhập đến các mô xung quanh và có thể di căn đến các vị trí ở xa. Điểm đặc biệt, 40% số ca ung thư có thể phòng được bằng cách tránh phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ biết trước hoặc không.Ngoài ra, một tỷ lệ ung thư có thể chữa khỏi bằng hóa trị liệu, tia xạ một cách đáng kể, đặc biệt khi bệnh nhân ấy được phát hiện sớm và có hướng xử trí kịp thời. Khoảng 72% tổng số ca tử vong ung thư năm 2007 rơi vào các quốc gia có thu nhập thấp và thu nhập trung bình Tử vong do ung thư trên toàn cầu tiếp tục gia tăng và ước tính khoảng 12 triệu ca vào năm 2030. Một số yếu tố nguy cơ thường gặp có liên quan đến sự phát triển của ung thư rất đa dạng và nguy cơ tiềm ẩn trong môi trường và ngay cả nội tại cơ địa của bệnh nhân.
Vì chủ đề ngày ung thư thế giới năm nay (World Cancer Day) là “Ung thư cũng có thể phòng được” (“Cancer can be prevented too”) và là một trong 3 thành tố của Chiến lược toàn cầu về phòng chống các bệnh không lây nhiễm của Tổ chức Y tế thế giới (Global Strategy for the Prevention and Control of Non-communicable Diseases_NCDs), nên kế hoạch hành động của nó chính là các biện pháp dự phòng, đặc biệt làm thế nào giảm phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ chính của 4 nhóm bệnh NCDs (tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường và bệnh hô hấp mạn tính). Việc triển khai nghiên cứu tất cả các khía cạnh dịch tễ học, yếu tố nguy cơ, biện pháp can thiệp phòng bệnh cho ung thư sẽ là rất có ý nghĩa lớn nhằm nâng cao kiến thức không chỉ cho giới chức y tế mà cho cả cộng đồng, tất cảđiều đó sẽ tác động rất lớn đến không chỉ về mặt cải thiện sức khỏe mà còn liên đới đến sự phát triển của cộng đồng.
Nguyên nhân gây ung thư
Nguyên nhân gây ung thư là sự sai / hỏng của ADN, tạo nên các đột biến ở các gene thiết yếu điều khiển quá trình phân bào cũng như các cơ chế quan trọng khác. Một hoặc nhiều đột biến được tích lũy lại sẽ gây ra sự tăng sinh không kiểm soát và tạo thành khối u. Khối u là một khối mô bất thường, có thể ác tính, tức ung thư hoặc lành tính, tức không ung thư. Chỉ những khối u ác tính thì mới xâm lấn mô khác và di căn. Khái niệm ác hay lành tính ở đây nên hiểu về mặt giải phẫu bệnh học nhiều hơn là về khả năng gây chết người. Thật vậy, một người có thể sống nhiều năm với một ung thư hắc tố da, trong khi một khối u "lành tính" trong hộp sọ có thể chèn ép não gây tàn phế hoặc tử vong tức thời.
Ung thư có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau phụ thuộc vào vị trí, đặc điểm và khả năng di căn của khối u. Chẩn đoán xác định ung thư thường đòi hỏi phải sinh thiết rồi quan sát trên kính hiển vi. Người bị ung thư có thể được chữa trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu hoặc xạ trị liệu. Nếu không được chữa trị sớm, hầu hết các loại ung thư có thể gây tử vong, đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong chính trong những nước phát triển. Hầu hết các bệnh ung thư có thể chữa trị và nhiều bệnh có thể chữa lành, nếu được phát hiện và điều trị sớm. Nhiều dạng ung thư có liên quan đến các yếu tố môi trường mà có thể tránh khỏi. Hút thuốc lá là một trong những yếu tố gây nguy cơ ung thư nhiều nhất.
Một số điểm mới trong nghiên cứu dịch tễ học ung thư
So với một số nghiên cứu về dịch tễ học của bệnh lý khác, khi nghiên cứu tỷ lệ mắc bệnh của ung thư (prevalence) chính là thống kê số ca ung thư sống sót (numbers of cancer survivors) và có khái niệm cũng đáng lưu ý trong nghiên cứu đánh giá tình hình mắc bệnh ung thư đó là tỷ lệ mắc ung thư ước tính cuối cùng hay ước tính gần đây nhất (latest estimated cancer prevalence), ngược lại tỷ lệ mắc mới ung thư (cancer incidence) là thống kê con số ca mắc mới được chẩn đoán ung thư trong một thời điểm. Trong khi tỷ lệ mắc mới (incidence) ung thư chỉ ra số ca mắc ung thư mới đang gia tăng trong một khoảng thời gian đặc biệt thì tỷ lệ mắc ung thư (prevalence) lại chỉ ra số người đã được chẩn đoán ung thư trước đó và người vẫn còn sống tại thời điểm ghi nhận. Một số bệnh nhân đã được chữa trị, một số khác lại không. Do vậy, tỷ lệ “prevalence” phản ánh cả “incidence” và những người còn sống sót trước đó đã được chẩn đoán. Hai khái niệm cũng được xem là mới khi đánh giá bệnh ung thư:
·Tỷ lệ được thống kê trong một khoảng thời gian nhất định (Limited - duration prevalence) cho biết tỷ lệ người còn sống trong một vài ngày mà người đó đã có chẩn đoán trước đó trong khoảng thời gian x năm trước đó (past x years);
·Tỷ lệ đã thu thập tới hạn (Complete prevalence) biểu hiện tỷ lệ người còn sống một vài ngàynữa đã được chẩn đoán trước đó, không liên quan đến chẩn đoán trước đó là bao lâu hoặc nếu bệnh nhân vẫn còn sống và đang điều trị.
Việc tầm soát ung thư đóng vai trò quan trọng
Tầm soát ung thư là thử nghiêm nhằm thăm dò các dạng ung thư nghi ngờ trong quần thể dân cư. Các thử nghiệm tầm soát phù hợp phải có thể đáp ứng được cho một số lượng lớn người khỏe mạnh, an toàn, không xâm nhập đồng thời có tỷ lệ dương tính giả thấp chấp nhận được. Khi triệu chứng ung thư được phát hiện thì các phương pháp chẩn đoán kế tiếp thâm nhập hơn và có khả năng khẳng định hơn được thực hiện để xác nhận chẩn đoán. Tầm soát ung thư có thể giúp phát hiện sớm bệnh. Chẩn đoán sớm giúp kéo dài đời sống. Một số thử nghiệm tầm soát đã được triển khai. Tầm soát ung thư vú có thể được thực hiện bởi tự khám vú. Tầm soát bằng chụp tuyến vú phát hiện được khối u sớm hơn cả tự thăm khám, và nhiều nước sử dụng nó để tầm soát một cách hệ thống tất cả các phụ nữ trung niên. Ung thư đại trực tràng có thể được phát hiện nhờ vào xét nghiệm máu tiềm ẩn trong phân (occult blood) và nội soi đại tràng, chúng giúp làm giảm đi cả tỷ lệ mắc bệnh và tử vong nhờ phát hiện và loại bỏ các polyp tiền ác tính. Một cách tương tự, xét nghiệm tế bào học cổ tử cung (sử dụng Pap’s smear test) giúp xác định và cắt bỏ các tổn thương tiền ung thư. Qua thời gian, những thử nghiệm như vậy đã dẫn đến giảm rõ rệt tỷ lệ ung thư cổ tử cung và tỷ lệ tử vong. Nam giới được khuyên tự khám tinh hoàn bắt đầu từ tuổi 15 để phát hiện ung thư tinh hoàn. Ung thư tiền liệt tuyến có thể được tầm soát nhờ vào khám trực tràng bằng ngón tay cùng với thử máu tìm kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến (PSA_Prostatic Specific Antigen).
Tầm soát ung thư là vấn đề còn bàn cãi trong những trường hợp khi không biết chắc nó có thực sự cứu mạng sống hay không. Tranh cãi đặt ra khi không rõ là liệu lợi ích từ việc tầm soát có hơn hẳn nguy cơ của các xét nghiệm chẩn đoán tiếp theo và điều trị ung thư. Ví dụ trong trường hợp tầm soát ung thư tiền liệt tuyết, xét nghiệm PSA có thể phát hiện những ung thư nhỏ mà sẽ không bao giờ trở nên đe dọa đến tính mạng, nhưng khi đã được chẩn đoán thì sẽ dẫn đến điều trị. Tình trạng này gọi là chẩn đoán quá mức, đưa con người đối diện với nguy cơ các biến chứng của điều trị không cần thiết như là phẫu thuật hay xạ trị. Những thủ thuật tiếp theo được sử dụng để chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến (như sinh thiết tiền liệt tuyến) có thể gây ra các tác dụng phụ, như chảy máu và nhiễm trùng. Điều trị ung thư tiền liệt tuyến có thể dẫn đến viêc đái són (mất khả năng kiểm soát dòng nước tiểu) và rối loạn cường dương. Tương tự đối với ung thư vú, gần đây có những phê bình về chương trình tầm soát ung thư ở một vài nước đã gây là nhiều bất cập hơn là lợi ích thu được. Đó là vì tầm soát phụ nữ trong quần thể rộng sẽ gây ra một số lớn dương tính giả cần khảo sát tiếp theo để loại trừ ung thư, dẫn đến tăng số cần điều trị (hay số cần tầm soát) để phòng ngừa hay bắt gặp một trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm.
Về phương diện y tế công cộng, tầm soát ung thư cổ tử cung bằng Pap’s smear có hiệu quả - chi phí tốt nhất trong các dạng tầm soát ung thư vì ung thư này có yếu tố nguy cơ rõ ràng (tiếp xúc qua đường tình dục) và diễn tiến tự nhiên chậm qua nhiều năm do đó cho phép chúng ta có thời gian để tầm soát và phát hiện bệnh sớm. Hơn nữa, xét nghiệm này cũng dễ thực hiện và tương đối rẻ tiền. Sử dụng chẩn đoán hình ảnh để truy tầm ung thư ở những người không có triệu chứng rõ ràng cũng có những vấn đề rắc rối tương tự. Nguy cơ tăng đáng kể trong việc phát hiện những khối u mà gần đây được gọi là khối u tình cờ - đó là tổn thương lành tính được xem là ác tính để rồi trở thành điểm ngắm cho các thăm dò nguy hiểm khác. Vì những lý do này, điều quan trọng là lợi ích và nguy cơ của quá trình chẩn đoán và điều trị phải đựơc cân nhắc khi tiến hành tầm soát ung thư.
Đặc điểm di truyền
Hầu hết các dạng ung thư là tự phát đơn lẻ, và không có cơ sở di truyền. Tuy nhiên một số hội chứng của ung thư đã được biết có mang yếu tố di truyền. Chẳng hạn, một số đột biến ở gen BRCA1 và BRCA2 liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng. Các khối u của các cơ quan nội tiết trong bệnh đa u tuyến nội tiết (multiple endocrine neoplasia - MEN thể 1, 2a, 2b), hội chứng Li-Fraumeni (sarcoma xương, ung thư vú, sarcoma mô mềm, u não) do đột biến của p53; hội chứng Turcot (u não và polyp đại tràng); bệnh polype tuyến gia đình là một đột biến di truyền trong gen APC dẫn đến phát triển sớm ung thư đại tràng hay u nguyên bào võng mạc trẻ em là ung thư di truyền
Môi trường và chế độ ăn uống
Tỷ lệ phát hiện ung thư phổi và hút thuốc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo Tổ chức sức khỏe gia đình (NIH) quốc gia Mỹ cho biết: qua nhiều thập kỷ nghiên cứu, phát hiện chắc chắn nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa hút thuốc lá và ung thư ở các vị trí khác nhau. Hàng trăm nghiên cứu dịch tễ học đã khẳng định mối liên kết này. Dữ liệu ủng hộ thêm nữa là tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở Mỹ phản ảnh mức độ hút thuốc lá, trong đó sự gia tăng hút thuốc lá dẫn đến gia tăng ung thư phổi, và gần đây hơn khi hút thuốc lá giảm đi kèm với tỷ lệ tử vong do ung thư phổi giảm ở nam giới. Đến phân nửa số ung thư tất cả các loại có sự đóng góp của hút thuốc lá, chế độ ăn uống và ô nhiễm môi trường.
Chế độ ăn uống các thực phẩm chứa hóa chất (chất bảo quản, thuốc trừ sâu, phân bón hóa học...) làm tăng nguy cơ gây ung thư. Thói quen ăn uống thường giải thích cho sự khác biệt về tỷ lệ ung thư ở các nước (ví dụ như ung thư dạ dày hay gặp hơn ở Nhật Bản, trong khi ung thư đại tràng hay gặp hơn ở Mỹ). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, người nhập cư cũng phát triển nguy cơ ung thư giống như ở đất nước mới đến của họ, gợi ý có sự kết nối giữa ăn uống và ung thư hơn là cơ sở về di truyền. Dù thường xuyên có các báo cáo về các chất đặc biệt (bao gồm cả thức ăn) có tác động lợi hay hại đến nguy cơ ung thư, chỉ một vài trong số chúng thiết lập được mối liên quan đến ung thư. Các báo cáo này dựa trên các nghiên cứu trong môi trường nuôi cấy tế bào hay động vật. Các lời khuyên về sức khỏe cộng đồng không nên dựa vào cơ sở các nghiên cứu này cho đến khi chúng được xác định trên các thử nghiệm quan sát (hay đôi khi là thử nghiệm can thiệp tiền cứu) trên người.
Trường hợp của beta-carotene cho chúng ta ví dụ về sự cần thiết của thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Các nhà dịch tễ học nghiên cứu cả hai nồng độ trong thức ăn và huyết thanh thấy rằng nồng độ cao của beta-carotene, một tiền chất của vitamin A, có liên quan đến hiệu quả phòng bệnh, làm giảm nguy cơ ung thư. Hiệu quả này thật sự đặc biệt mạnh trong ung thư phổi. Giả thuyết này đã dẫn đến một loạt các thử nghiệm ngẫu nhiên lớn ở Phần Lan và Mỹ (nghiên cứu CARET) trong suốt hai thập niên 1980 và 1990. Nghiên cứu này cung cấp cho khoảng 80.000 người hút thuốc lá hoặc đã từng hút thuốc lá các bổ sung hằng ngày về beta-carotene hoặc placebo. Ngược lại với mong đợi, những kiểm tra này cho thấy bổ sung beta-carotene không có ích lợi trong giảm tỷ lệ mắc ung thư phổi và tỷ lệ tử vong. Thực ra, nguy cơ ung thư phổi tăng nhẹ, nhưng có ý nghĩa, ở người hút thuốc lá, khiến nghiên cứu kết thúc sớm.
Y học thay thế và bổ sung
Y học thay thế và bổ sung (complementary and alternative medicine - CAM) là nhóm đa dạng các hệ thống săn sóc sức khỏe và y tế, thực hành và sản phẩm vốn không được xem là có hiệu quả bởi các chuẩn mực của y học quy ước. Một số phương pháp điều trị không quy ước được dùng "bổ sung" cho điều trị quy ước, nhằm tạo sự thoải mái và nâng cao tinh thần cho bệnh nhân. Một số phương pháp điều trị không quy ước khác được dùng thay thế điều trị quy ước với hy vọng chữa lành ung thư.
 |
Ăn uống lành mạnh có thể giúp hạn chế nguy cơ ung thư. Ảnh: fitbrits.org |
Các phương pháp bổ sung thông thường như cầu nguyện hay các biện pháp tâm lý như "tưởng tượng." Nhiều người cảm thấy phương pháp này mang lợi ích cho họ, nhưng hầu hết không chứng minh được tính khoa học và vì thể phải đối diên với sự hồ nghi. Các phương pháp bổ sung khác bao gồm y học cổ truyền như Đông y (thuốc nam/thuốc bắc).
Nhiều biện pháp điều trị thay thế đã được sử dụng trong ung thư ở thế kỷ qua. Tính hấp dẫn của trị liệu thay thế đến từ các nguy cơ gây chán nản với điều trị, chi phí và tác dụng phụ của điều trị quy ước, hoặc triển vọng chữa lành thấp. Những người đề nghị các phương pháp này không thể hay không muốn chứng minh tính hiệu quả bằng các tiêu chuẩn quy ước. Các điều trị thay thế bao gồm chế độ ăn đặc biệt hoặc bổ sung thành phần thức ăn (chế độ ăn nho hay điều trị vitamin liều cao), các dụng cụ điện (các máy xoa bóp), các chất có công thức đặc biệt (laetrile), sử dụng không theo quy ước các thuốc quy ước (insulin), thụt tháo, các thao tác vật lý trên cơ thể,…. Một vài phương pháp điều trị này mang tính lừa dối hay xảo thuật. Tóm lại chúng được đánh giá bởi các giới hồ nghi như phương pháp lang vườn điều trị ung thư. Một danh sách có giải thích các phương pháp điều trị này có sẵn tại Quackwatch. Hầu hết các thầy thuốc chống lại việc sử dụng các phương pháp này đơn độc trong điều trị các bệnh lý có khả năng tử vong như ung thư.
Đề xuất các biện pháp phòng ngừa ung thư
·Phòng ngừa ung thư là các biện pháp tích cực nhằm đề phòng, ngăn chặn và giảm tỷ lệ ung thư. Điều này có thể thực hiện bằng cách tránh các tác nhân sinh ung thư hay thay đổi quá trình chuyển hóa của chúng: thay đổi lối sống và chế độ ăn uống nhằm ngăn ngừa các yếu tố gây ung thư hoặc can thiệp bằng y khoa (hóa dự phòng, điều trị sang thương tiền ác tính). Có nhiều hứa hẹn phòng ngừa ung thư rút ra từ các nghiên cứu dịch tễ học quan sát. Các nghiên cứu này chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố lối sống có thể tác động được hay phơi nhiễm môi trường với các bệnh ung thư đặc biệt. Các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát thực hiện trên các gợi ý can thiệp rút ra từ nghiên cứu dịch tễ và phòng thí nghiệm đã đưa ra bằng chứng về giảm tỉ lệ mới mắc và tỉ lệ tử vong;
·Các ví dụ về các nguy cơ có thể tác động được gồm có uống rượu (phối hợp với tăng nguy cơ ung thư miệng, thực quản, vú và các ung thư khác), không hoạt động chân tay (phối hợp với tăng nguy cơ ung thư đại tràng, vú, và có thể các ung thư khác), tình trạng béo phì (phối hợp với ung thư đại tràng, vú, nội mạc tử cung, và có thể các ung thư khác). Dựa vào các bằng chứng dịch tễ học, ngày nay người ta cho rằng tránh uống rượu quá mức, tích cực hoạt động thể lực và duy trì trọng lượng cơ thể thích hợp có thể góp phần làm giảm nguy cơ một số ung thư; tuy nhiên khi so sánh với phơi nhiễm thuốc lá, các phương pháp này có tính hiệu quả còn khiêm tốn và độ tin cậy của bằng chứng còn thấp. Các yếu tố về lối sống và môi trường khác được biết có ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư (có lợi hay hại) là hoạt động tình dục hay sinh sản, sử dụng hormone ngoại sinh, tiếp xúc với các phóng xạ ion hoá và tia cực tím, phơi nhiễm với hóa chất và nghề nghiệp nào đó, các tác nhân nhiễm trùng;
·Các chất hóa dự phòng khác: sử dụng hằng ngày tamoxifen, một chất điều hoà chọn lọc thụ thể estrogen, cho đến 5 năm, đã tỏ ra làm giảm nguy cơ phát triển ung thư vú ở phụ nữ nguy cơ cao khoảng 50%. Axít cis-retinoic cũng tỏ ra giảm nguy cơ các ung thư nguyên phát tái phát ở các bệnh nhân ung thư nguyên phát vùng đầu - cổ. Finasteride, là chất ức chế men 5-alpha reductase, có thể hạ thấp nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến. Các ví dụ khác về thuốc tỏ ra có hứa hẹn trong hóa dự phòng gồm thuốc ức chế men COX-2 (ức chế men cyclooxygenase liên quan đến tổng hợp prostaglandin tiền viêm);
·Vaccine trong ung thư: các nỗ lực đáng kể trong việc phát triển vaccine (để dự phòng các tác nhân lây nhiễm sinh u, cũng như phát động đáp ứng miễn dịch chống lại các epitope đặc hiệu cho ung thư) và để phát triển gen tri liệu đối với các cá thể có các đột biến di truyền hay đa hình thái khiến họ đối diện nguy cơ ung thư cao. Hiện tại không có vaccine nào được sử dụng, và hầu hết các nghiên cứu vẫn còn ở giai đoạn bắt đầu’
·Xét nghiệm di truyền: được dùng tầm soát cho cá nhân nguy cơ cao, nhằm tăng cường giám sát, hóa dự phòng, hay phẫu thuật để giảm nguy cơ cho các đối tượng có xét nghiệm dương tính. Hiện tại xét nghiệm này đã có sẵn cho vài loại đột biến gen có liên quan đến ung thư.
Đối diện với ung thư và tác động đối với xã hội
Ung thư có tiếng là căn bệnh chết chóc. Tuy nhiên điều này chỉ đúng cho một vài dạng cụ thể nào đó. Một số loại ung thư có tiên lượng còn tốt hơn các bệnh không ác tính như suy tim và tai biến mạch máu não. Các bệnh lý ác tính diễn tiến và lan tỏa có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng sống của bệnh nhân, và nhiều điều trị (như hoá trị) có thể có tác dụng phụ nặng nề. Ở giai đọan tiến triển ung thư, nhiều bệnh nhân các săn sóc tăng cường, và ảnh hưởng đến người thân và bạn bè. Giải pháp săn sóc tạm thời có thể là săn sóc điều dưỡng nội trú vĩnh viễn hay ngắn hạn.
Nhiều tổ chức địa phương cung cấp các dịch vụ thực hành và hỗ trợ khác nhau cho các bệnh nhân ung thư. Hỗ trợ gồm các hình thức nhóm hỗ trợ, tham vấn, khuyên nhủ, hỗ trợ tài chính, vận chuyển đi lại trong điều trị, hay các thông tin về ung thư. Các tổ chức lân cận, các người cung cấp các dịch vụ y tế địa phương, hay các bệnh viện khu vực là nơi tốt để tìm kiếm hỗ trợ. Mặc dù có một số người lưỡng lự trong việc tìm kiếm tham vấn, các nghiên cứu chỉ ra rằng có người nào đó để trao đổi giúp giảm căng thẳng tinh thần và giúp họ về mặt tinh thần và thể chất. Tham vấn cũng có thể giúp hỗ trợ tình cảm đối với bệnh nhân ung thư và giúp họ hiểu tốt hơn bệnh lý của họ. Các dạng tham vấn khác nhau là cá nhân, nhóm, gia đình và tự giúp nhau (đôi khi được gọi là tham vấn đồng hành), thăm viếng người quá cố, bệnh nhân với bệnh nhân và vấn đề tình dục.
Nhiều tổ chức chính phủ và từ thiện được thành lập để giúp đỡ các bệnh nhân đối diện với ung thư. Các tổ chức này thường liên quan đến dự phòng ung thư, điều trị ung thư và nghiên cứu ung thư. Ví dụ như: Hội ung thư Mỹ, Tổ chức ung thư bạch cầu, Tổ chức xoa dịu ung thư Macmillan, Nghiên cứu ung thư Anh Quốc, Hội ung thư Canada, Tổ chức quốc tế về nghiên cứu ung thư và Viện ung thư quốc gia (Mỹ),…