Cập nhật thông tin và tổng hợp y văn thường xuyên sẽ giúp cho các thầy thuốc dù làm trong “môi trường” điều trị hay hệ dự phòng đều luôn luôn có ích và hữu dụng cho tác nghiệp của chính mình. Các thông tin này có thể được trích dẫn một phần hoặc nguyên văn từ một số đồng nghiệp trong nước và quốc tế, thông qua các kết quả nghiên cứu của chính nhóm tác giả và các dự án quốc tế nghiên cứu chuyên sâu từng lĩnh vực khác nhau. Với ý tưởng chia sẻ thông tin cùng quý đồng nghiệp trong nước đã và đang làm công tác chuyên ngành truyền nhiễm, nội khoa và đặc biệt là chuyên khoa ký sinh trùng vi nấm, chúng tôi xin tổng hợp một số thông tin đã truy cập trong thời gian qua.
Mười thực tế liên quan đến bệnh sốt rét
Thực tế thứ nhất
Sốt rét là bệnh có thể lây truyền cho người dân ở mọi lứa tuổi. Sốt rét là một bệnh lây thông qua muỗi đốt và do nhóm ký sinh trùng Plasmodium spp gây ra. Nếu không được điều trị kịp thời với các thuốc có hiệu quả, bệnh có thể gây những biến chứng nguy hiểm, thậm chí gây tử vong.
Thực tế thứ hai
Khoảng 3.3 tỷ người - một nửa dân số thế giới có nguy cơ bị bệnh sốt rét. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 250 triệu người mắc bệnh sốt rét và gần một triệu người trong số đó bị tử vong, đặc biệt là trẻ em ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi. Người dân sống ở những nước nghèo là những người dễ bị tổn thương nhất.
Thực tế thứ ba
1/5 các ca tử vong của trẻ em ở châu Phi là do bệnh sốt rét. Ở châu Phi, trung bình cứ khoảng 30 giây lại có 1 đứa trẻ bị tử vong do sốt rét .
Thực tế thứ tư
Chẩn đoán và điều trị kịp thời là hai yếu tố cơ bản kiểm soát bệnh sốt rét. Bệnh có thể chữa khỏi nhưng việc điều trị cần được bắt đầu sớm, chữa nhanh chóng ngay sau khi đã xác định chính xác bệnh. Sốt rét là bệnh hiểm nghèo, gây tử vong cho nhiều người nhưng có thể chữa khỏi cũng như phòng tránh được.
Thực tế thứ 5
Không “thích hợp” sử dụng thuốc chống sốt rét trong thế kỷ qua đã góp phần phần làm tăng những trường hợp ký sinh trùng sốt rét kháng với các thuốc sốt rét cổ điển như chloroquine (CQ), dẫn đến tỷ lệ tăng của bệnh tật và tử vong. Trong những năm gần đây, nhóm thuốc phối hợp dựa trên góc Artemisinine (ACTs_Artemisinin-based combination therapies) được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo khuyên dùng tại các vùng mà ký sinh trùng sốt rét, đặc biệt là P. falciparum đã kháng với CQ nên đã mang lại hy vọng mới trong cuộc chiến chống bệnh sốt rét.
Thực tế thứ 6
vi sinh vật truyền bệnh là muỗi Anopheles. Vì vậy biện pháp phòng bệnh là hạn chế không cho muỗi sinh sôi, nảy nở bằng cách dùng thuốc trừ muỗi, khai quang ao tù nước đọng gần nhà, ngăn không cho muỗi tiếp xúc bằng cách đóng cửa mỗi khi chiều xuống, làm lưới cửa sổ, cửa ra vào, nằm mùng tẩm hóa chất,...
Thực tế thứ 7
Trẻ em và phụ nữ mang thai trong vùng có khả năng lây bệnh cao nên nằm màn được tẩm hoá chất để giảm nguy cơ mắc bệnh. Các cá nhân nên tự thân, chủ động phòng tránh bệnh sốt rét. Các lưới chống muỗi có thể bảo vệ cộng đồng tránh bị muỗi đốt. Lưới hoặc màn tẩm chống muỗi có loại có thể có hiệu quả cho một vài năm (khoảng từ 3-5 năm, tuỳ thuộc vào kiểu dáng và điều kiện sử dụng).
Thực tế thứ 8
Việc phun thuốc diệt muỗi là phương pháp hiệu quả và nhanh chóng làm giảm mật độ muỗi. Việc phun thuốc diệt muỗi trong nhà có thể có hiệu quả diệt trừ muỗi trong thời gian từ 3 đến 6 tháng, tuỳ thuộc vào loại thuốc được sử dụng và loại bề mặt chất liệu mà thuốc được phun lên trên (DDT- dichloro diphenyl trichloroethane là loại thuốc có hiệu quả trong thời gian dài hơn, trong một số trường hợp hiệu quả diệt muỗi có thể lên đến 12 tháng). Hiện nay đã có một số loại hóa chất mới thay thế có hiệu quả phòng chống sốt rét rất cao.
Thực tế thứ 9
Phụ nữ mang thai nếu mắc bệnh sốt rét không chỉ có nguy cơ tử vong cao mà còn gặp phải nhiều biến chứng nếu bị sốt rét nặng như sẩy thai, sinh non hoặc thai chết lưu. Sốt rét cũng là một nguyên nhân gây thiếu máu trầm trọng ở bà mẹ và gây thiếu máu cho khoảng 1/3 trẻ sinh ra nhẹ cân mà chúng ta hoàn toàn có thể phòng tránh được. Mỗi năm, chỉ tính riêng tại châu Phi, bệnh sốt rét cũng là nguyên nhân dẫn đến tử vong cho 10.000 phụ nữ có thai và khoảng 200.000 trẻ sơ sinh.
Thực tế thứ 10
Sốt rét và sự nghèo khó có liên hệ chặt chẽ với nhau. Bệnh hầu như đã bị loại trừ ở các quốc gia phát triển, nhưng vẫn hoành hành ở các nước đang phát triển, đặc biệt là châu Phi. Nơi đây chi phí phòng tránh và điều trị bệnh chiếm khoảng 40% ngân sách dành cho y tế công cộng. Ngoài ra, tình trạng bất ốn chính trị cũng luôn luôn gây trở ngại loại trừ sốt rét cho một số quốc gia này. Sốt rét tuy là bệnh gây nhiều tử vong nhưng có thể chữa khỏi cũng như phòng tránh được. Trong mấy thập niên vừa qua, đã có rất nhiều đóng góp, hợp tác của nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới để chặn đứng căn bệnh này.
Thuốc sốt rét có thể chữa bệnh SARS
Loại thuốc chữa bệnh sốt rét chloroquine (CQ) có thể được dùng để chữa bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng (SARS), căn bệnh đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm người năm trước. Các nhà virus học tại Bỉ cho biết tuần trước. Nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi Giáo sư Marc Van Ranst thuộc Viện nghiên cứu Y học Rega của Đại học Leuven, đã tìm thấy CQ "có tác dụng tích cực chống lại Coronavirus SARS trong các thử nghiệm ở phòng thí nghiệm". Nhóm nghiên cứu cũng cho biết CQ có thể có vai trò rất quan trọng trong việc ngừa bệnh cho những người sống trong hoặc đi tới vùng nhiễm SARS và chữa bệnh cho các bệnh nhân SARS.
Gần 800 người đã chết vì hội chứng viêm đường hô hấp cấp nặng này, sau khi nó bùng phát tại miền nam Trung Quốc vào cuối năm 2002. Bệnh lây cho gần 8.000 người ở gần 30 quốc gia, gây thiệt hại nặng nề cho ngành công nghiệp du lịch và hàng không. Trung Quốc, là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất của căn bệnh này, tuyên bố đã khống chế được dịch vào tháng 7/2003, nhưng vẫn xuất hiện vài ca trong năm nay.
Bước đột phá trong điều trị sốt rét
Hiện nay, sốt rét vẫn là một căn bệnh khó tiêu diệt. Đặc biệt, hai loại muỗi Anopheles Gambiae và Anopheles Funesus được xem là “vô địch” trong lĩnh vực truyền bệnh sốt rét cho người ở châu Phi, làm tiêu tốn hàng năm khoảng 12 tỷ USD trong việc phòng và trị bệnh. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 1 triệu ca sốt rét, trong đó có 85% là do Plasmodium falciparum đã đề kháng với chloroquine và Fansidar. Vì thế, các nhà khoa học vẫn không ngừng nghiên cứu nhằm tìm ra một loại thuốc mới điều trị sốt rét hiệu quả hơn.
Bệnh sốt rét quay trở lại từ đầu thập niên 70 với các ký sinh trùng đã đề kháng nhiều loại thuốc cổ điển giá rẻ như CQ. Bệnh đã gây thiệt hại khoảng 12 tỷ USD hàng năm cho các nước châu Phi, chiếm đến 40% ngân sách phục vụ sức khỏe cộng đồng. Theo báo cáo gần đây của Viện Y học IOM thì bệnh sốt rét đang tái xuất hiện ở mức độ cao, từ đó nhấn mạnh đến việc cần thiết phải bổ sung nguồn thuốc cấp bách có thể thay thế các thuốc trị sốt rét cũ đã bị kháng với giá thành rẻ hơn. Hiện nay, liệu pháp thuốc kết hợp ACTs (Artemisinine based Combination Therapies) là phương pháp điều trị sốt rét hiệu quả nhất, nhưng do chi phí cao nên việc cung cấp cho bệnh nhân nghèo tại các địa phương có dịch sốt rét còn gặp khó khăn (mỗi năm cần tới khoảng 300-500 triệu phương thuốc điều trị).
Cây thanh hao hoa vàng đã được y học Đông phương biết đến từ lâu trong điều trị bệnh sốt rét. Tên khoa học của cây là Artemisia annua. Tại Việt Nam, hai danh y Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông cũng xác nhận thanh hao hoa vàng có khả năng trị được bệnh sốt rét, chứng đổ mồ hôi trộm. Hoạt chất chính của cây thanh hao hoa vàng là Artemisinine (tiếng Trung Quốc gọi là qinghaosu) được phân lập và có cấu trúc xác định vào năm 1972 - là một chất sesquiterpene lactone với một cầu nối peroxide bên trong. Lá thanh hao được tán nhuyễn, xay thành bột để chiết xuất hoạt chất artemisinine. Năm 1993, Vonwiller và cộng sự đã báo cáo một phương pháp mới ly trích các hợp chất của cây thanh hao hoa vàng giúp gia tăng hàm lượng Artemisinine.
Việc kết hợp các dẫn xuất của artemisinin như Artesunate, Artemether tỏ ra có hiệu quả trong việc chống lại ký sinh trùng sốt rét đã đề kháng với các thuốc sốt rét cổ điển. Artemether đã được phép đăng ký sử dụng tại châu Phi với tên là Paluther. Tuy nhiên, do chi phí sản xuất thuốc còn quá cao, thời gian bán hủy ngắn nên gây nhiều khó khăn cho việc điều trị vì bệnh nhân phải dùng thuốc liên tục sau mỗi 4 giờ. Thời gian điều trị theo phác đồ kéo dài thường dễ thất bại nếu bệnh nhân không thường xuyên dùng thuốc. Mặc dù Artemisinin được xem là chất cơ bản trong liệu pháp kết hợp ACTs, nhưng “khả thi” điều trị còn giới hạn do giá thành cao cũng như phương pháp ly trích tốn nhiều thời gian. Vì thế, việc nghiên cứu sản xuất một loại thuốc hữu hiệu chống sốt rét với giá thành hạ tỏ ra cần thiết hơn bao giờ hết.
Việc phát minh thuốc mới chống sốt rét phải đạt được các yêu cầu: Hiệu quả hơn liệu pháp các thuốc phối hợp ACTs, không phụ thuộc vào cây thanh hao hoa vàng, giá thành hạ. Một sản phẩm mới ra đời với mã số OZ 277/Rbx 11160 đã được xem là bước đột phá lớn nhất trong điều trị sốt rét hiện nay. Đây là thành quả của một nỗ lực hợp tác quốc tế được tiến hành từ cuối thập niên 90 thế kỷ 20 giữa các nhà khoa học thuộc các Viện Đại học Monash (Úc), Trung tâm Y khoa Nebraska (Mỹ), Viện Nhiệt đới (Thụy Sĩ) và Viện Dược phẩm Hoffmann-La Roche (Thụy Sĩ). Kết quả của các công trình nghiên cứu đã được ấn bản trên tạp chí khoa học Nature.
OZ 277/Rbx 11160 là một chất tổng hợp có cấu trúc tương tự Artemisinin, sẽ là vũ khí chính trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét đa kháng thuốc và có thể đáp ứng được nhu cầu điều trị trong vòng 3 năm tới. Thuốc tác động bằng cách dùng các gốc tự do tấn công vào protein và enzyme của ký sinh trùng OZ 277/Rbx 11160 hiện đang được thử nghiệm về tính an toàn trên người với kết quả rất hứa hẹn. Giaos sư Bill Charman thuộc trường Đại học Dược Victoria cho biết OZ 277/Rbx 11160 vừa rẻ vừa dễ sản xuất, mở ra tiềm năng có thể cứu sống hàng triệu bệnh nhân sốt rét trên khắp thế giới. Theo thống kê năm 2003, mỗi ngày tại châu Phi có đến 3.000 trẻ em tử vong vì sốt rét, nghĩa là cứ mỗi 30 giây lại có một trẻ em châu Phi tử vong vì căn bệnh này. Sốt rét cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe của phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh ở châu Phi. Hiện hàng năm có khoảng 20% dân số thế giới sống ở những nước nghèo nhất phải đối diện với nguy cơ nhiễm sốt rét. Cũng theo GS. Charman: “Chúng tôi đã thật sự xúc động về sự tiến bộ và tốc độ phát triển của thuốc. Hiện thuốc đang được thử nghiệm tại châu Âu, nếu tiến độ diễn ra tốt đẹp thì chỉ trong vòng 3 năm tới, đây sẽ là vũ khí mới giúp con người chống lại bệnh sốt rét một cách hiệu quả”. Mục đích chính của công trình nghiên cứu là cho ra đời được một loại thuốc hữu hiệu với giá thành thấp nhằm có thể cung cấp cho các quốc gia nghèo. Khả năng của OZ 277/Rbx 11160 là dùng điều trị các ký sinh trùng sốt rét đã đề kháng nhiều loại thuốc. Thử nghiệm trên chuột cho thấy hiệu lực 95-100% sạch ký sinh trùng trong vòng 3 ngày. Như thế chỉ với một đợt điều trị 3 - 4 ngày đã có thể chữa khỏi bệnh. Với giá thành điều trị 1 USD/ngày thì chương trình điều trị 3 ngày có thể dễ dàng được thực hiện. Loại thuốc mới này hứa hẹn sẽ giữ vai trò then chốt trong việc điều trị bệnh sốt rét, thay thế các thuốc cũ đã giảm hiệu quả hay đã bị kháng.
Từ tháng 5/2003, công ty dược phẩm hàng đầu của Ấn Độ Ranbaxy đã ký một thỏa ước với tổ chức MMV (Medicines for Malaria Venture) tại Geneve-Thụy Sĩ) để cùng phát triển sản phẩm peroxyde trong cuộc chiến toàn cầu chống lại bệnh sốt rét. MMV (Medicines for Malaria Venture) là tổ chức phi lợi nhuận chuyên khám phá, phát triển và phân phối các phương tiện chống sốt rét. Ngày 19/8/2004, Ranbaxy và MMV đã thông báo việc đưa thuốc vào thử nghiệm lâm sàng trên người. Cả hai đơn vị này đã được cơ quan MHPRA (Medicines and Healthcare Products Regulatory Agency) cho phép tiếp tục công việc thử nghiệm lâm sàng trên người tại Anh. Đây là bước thử nghiệm thuốc mới đầu tiên sau khi đã đạt được độ an toàn và hiệu quả trên các bước thử nghiệm tiền lâm sàng giai đoạn trước đó. OZ277/Rbx 11160 đã được lượng giá trong pha I nghiên cứu về độ an toàn, sự dung nạp cũng như hiệu lực dược lý trên người tại Anh.
Như vậy, trong vòng vài năm tới, hy vọng con người sẽ có thêm một vũ khí hữu hiệu để ngăn chặn bệnh sốt rét, đặc biệt là xử trí chống kháng tốt - bệnh sốt rét hiện vẫn là nỗi lo của những quốc gia chậm hoặc đang phát triển.
Khám phá điểm yếu của ký sinh trùng sốt rét
Thông qua việc nghiên cứu các loại thuốc có gốc artemisinins chống sốt rét, được chiết xuất từ cây thanh hao hoa vàng (tên khoa học là Artemisia annua) ở Trung Quốc và Việt Nam, các nhà khoa học Anh vừa phát hiện một điểm yếu quan trọng ở ký sinh trùng sốt rét. Khám phá mới mở ra một “mặt trận” mới trong cuộc chiến chống lại loại ký sinh trùng đã kháng thuốc chống sốt rét cổ điển nhất CQ tại hầu hết các vùng miền có lưu hành sốt rét trên thế giới.
Artemisinine cho thấy một khe hở trong tấm áo giáp của ký sinh trùng Plasmodium falciparum. Đó là một trong 2 enzyme giúp ký sinh trùng bơm calcium vào màng tế bào của chúng. Theo Sanjeev Krishna, trưởng nhóm nghiên cứu thuộc Bệnh viện ST George, artemisinine tấn công trực tiếp enzyme Plasmodium falciparum ATP6 (PfATP6). Ngay khi khả năng bơm calcium bị vô hiệu hoá, ký sinh trùng chết trong vòng vài giờ mặc dù họ vẫn chưa biết cơ chế chính xác. Nhóm của Krishna phân lập enzyme PfATP6 bằng cách tiêm RNA truyền thông tin vào trứng của loài ếch Xenopis laevis. RNA truyền thông tin này mã hoá PfATP6. Bằng cách so sánh tác dụng của artemisinine với một chất hoá học có khả năng phong toả hoạt động PfATP6 cũng như với loại thuốc khác chẳng hạn như CQ, họ có thể chứng tỏ rằng artemisinine phong toả cả PfATP6 trong trứng ếch và trong ký sinh trùng sốt rét. Việc khám phá khả năng artemisinine tấn công enzyme PfATP6 làm giới khoa học ngạc nhiên bởi từ trước tới nay họ cho rằng chất chiết xuất này làm tổn thương các không bào - nơi ký sinh trùng sốt rét tiêu hoá máu. Được sản xuất tại Trung Quốc và Việt Nam, artemisinine đang chứng tỏ hiệu quả của nó tại Đông Nam Á, nơi tình trạng kháng thuốc đang diễn ra tràn lan. Artemisinins đã cứu sống hàng triệu bệnh nhân tại khu vực này. Nếu không có chúng, họ hẳn đã tử vong do các loại thuốc thông thường không có tác dụng.
Theo Krishna, artemisinine cũng đang bắt đầu phát huy tác dụng tại châu Phi và việc kết hợp artemisinin với các loại thuốc khác là hiệu quả nhất. Cùng với Peter Kremsner thuộc ĐH Tubingen, Đức, nhóm nghiên cứu của Krishna đang thử nghiệm artemisinins với amodiaquine trên trẻ em Gabon. Robert Ridley, điều phối viên chương trình phát triển các sản phẩm chống bệnh nhiệt đới tại WHO, cho biết nghiên cứu trên sẽ dẫn tới sự ra đời của các loại thuốc artemisinins mới, có hiệu quả nhanh, trong vòng 3-4 ngày, chứ không phải 1 tuần như các loại thuốc artemisinine hiện nay. Ngoài ra, giới khoa học có thể giám sát gene mã hoá enzyme PfATP6 trong các loại ký sinh trùng sốt rét khắp thế giới. Từ đó, họ biết được liệu gene này có đột biết, làm cho ký sinh trùng kháng artemisinine hay không.
Cho muỗi đốt để miễn dịch với bệnh sốt rét
Các nhà khoa học châu Âu đã thử nghiệm việc sử dụng muỗi để đưa vaccine chống bệnh sốt rét vào cơ thể người tình nguyện. Kết quả thử nghiệm đã thành công ngoài dự kiến. Những người được tiêm thuốc bằng cách cho muỗi đốt đều miễn dịch với căn bệnh sốt rét này. Tuy thí nghiệm không được tiến hành rộng rãi nhưng dù sao thành công này cũng cho thấy các nhà khoa học có thể đang đi đúng hướng trong việc tìm ra một loại vaccine chống lại căn bệnh sốt rét nguy hiểm. Bác sĩ Carlos Campbell, làm việc cho PATH (Chương tình sử dụng những công nghệ thích hợp cho sức khỏe) ở Seattle, Mỹ, cho rằng: "Vaccine cho bệnh nhân sốt rét đang đi từ phòng thí nghiệm vào cuộc sống".
Từ trước đến nay, chế tạo vaccine phòng sốt rét là một quá trình rất khó khăn. Thuốc đặc trị Chloroquine chỉ có thể giết ký sinh trùng gây bệnh khi chúng đã vào tới máu, mà đây đã là giai đoạn nguy hiểm nhất với bệnh nhân. Thí nghiệm này cho thấy, trong tương lai không xa, người ta có thể dùng kí sinh trùng hoàn chỉnh của bệnh sốt rét trong việc chế tạo vaccine phòng bệnh. Hàng năm trên thế giới, có khoảng 1 triệu người tử vong vì sốt rét vàng da, trong đó đa số là trẻ em dưới 5 tuổi ở châu Phi.