Tại đất nước Malaysia, bệnh sốt rét được giải quyết bằng các chiến lược tiêu diệt sốt rét (malaria eradication) thực hiện từ năm 1981-1985, chiến lược phòng chống sốt rét (malaria control) áp dụng từ năm 1985-2006 và chiến lược loại trừ sốt rét (malaria elimination) được triển khai từ năm 2006-2015. Hiện nay Malaysia đã cơ bản khống chế được bệnh sốt rét nội địa, sau 45 năm thực hiện các biện pháp can thiệp, đến năm 2006 số bệnh nhân sốt rét giảm 97,72% so với năm 1961 (5.569/243.870). Khó khăn hiện nay của Malaysia là việc quản lý sốt rét ở những đối tượng nhập cư từ các nước lân cận khác đến như Thái Lan, Singapore, Indonesia, Bruney ... Đất nước này đã và đang sử dụng chiến lược loại trừ bệnh sốt rét. Vậy chiến lược loại trừ bệnh sốt rét được xây dựng trên cơ sở nào ?
Khái niệm về thuật ngữ của các chiến lược
Chiến lược tiêu diệt sốt rét (malaria eradication strategy) có mục tiêu là làm giảm tỷ lệ mắc bệnh xuống đến mức độ không còn bệnh nhân sốt rét trên diện rộng và mang tính chất bền vững, xác định được loại ký sinh trùng sốt rét gây bệnh có liên quan để giải quyết hiệu quả.
Chiến lược phòng chống sốt rét (malaria control) có mục tiêu là làm giảm gánh nặng của bệnh sốt rét tới một mức độ bệnh sốt rét không còn là một vấn đề ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng.
Chiến lược loại trừ sốt rét (malaria elimination) có mục tiêu là cắt đứt sự lan truyền bệnh sốt rét của loài muỗi truyền bệnh tại vùng lãnh thổ, địa lý được xác định; không còn tỷ lệ mắc bệnh tại địa phương, chỉ còn sốt rét ngoại lai, địa phương vẫn tiếp tục triển khai các biện pháp phòng, chống sốt rét.
Nội dung chiến lược loại trừ bệnh sốt rét
Chiến lược loại trừ bệnh sốt rét được áp dụng nhằm cắt đứt sự lan truyền bệnh sốt rét của trung gian truyền bệnh sốt rét (muỗi sốt rét) tại một vùng lãnh thổ, địa lý đã được xác định; có nghĩa là không có tỷ lệ mắc bệnh sốt rét tại địa phương (sốt rét nội địa), chỉ còn sốt rét ngoại lai do bệnh nhân bị mắc bệnh sốt rét từ các nơi khác đến, ở tại địa phương đó vẫn tiếp tục triển khai các biện pháp phòng, chống sốt rét.
Chiến lược loại trừ bệnh sốt rétđược thực hiện bao gồm 4 giai đoạn, không giới hạn về thời gian cho từng giai đoạn mà chỉ căn cứ vào tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) trên dân số vùng sốt rét lưu hành hàng tháng trong năm.
Các giai đoạn của chiến lược loại trừ bệnh sốt rét
Chiến lược loại trừ bệnh sốt rét được thực hiện trải qua 4 giai đoạn, nếu giai đoạn trước bảo đảm các tiêu chuẩn và nội dung yêu cầu thì có thể có cơ sở để chuyển sang giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn phòng, chống sốt réttích cực
Công tác phòng, chống sốt rét được thực hiện đến khi đạt tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) dưới 5% tổng số bệnh nhân sốt rét lâm sàng thì chuyển sang giai đoạn tiền loại trừ sốt rét. Đơn vị để công nhận tiền loại trừ sốt rét tối thiểu là đơn vị huyện với dân số khoảng 100.000 người.
Giai đoạn tiền loại trừ sốt rét
Địa phương tiếp tục triển khai các biện pháp phòng, chống sốt rét tích cực để làm giảm tỷ lệ chết do sốt rét, giữ tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) dưới 5% tổng số bệnh nhân sốt rét lâm sàng. Làm giảm tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) xuống dưới 5% tổng số bệnh nhân sốt rét lâm sàng được xem như là tương đương với dưới 5 ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) / 1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành hàng tháng trong năm. Thay đổi chính sách sử dụng thuốc sốt rét bao gồm cả thuốc điều trị tiệt căn Plasmodium vivax và thuốc chống lây lan với Plasmodium falciparum. Vận động y tế tư nhân tham gia công tác phòng, chống sốt rét. Các trường hợp ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) được xác định bằng lấy lam máu nhuộm giemsa soi dưới kính hiển vi. Tiến hành theo dõi quản lý bệnh nhân sốt rét. Thực hiện các biện pháp phòng, chống muỗi truyền bệnh bằng hoá chất. Biện pháp phun tồn lưu được coi là biện pháp chính. Khảo sát thăm dò các vùng địa lý, ứng dụng cơ sở dữ liệu thông tin địa lý trong việc theo dõi, quản lý các ổ bệnh sốt rét , muỗi truyền bệnh và bệnh nhân sốt rét. Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ khả năng chỉ đạo, triển khai và quản lý sốt rét; tiến hành chương trình truyền thông giáo dục phòng, chống sốt rét thứ nhất nhằm làm thay đổi quan điểm và hành vi phòng, chống sốt rét trong nhân dân; bảo đảm nguồn thu thập số liệu từ các cơ sở y tế. Số liệu thu thập được xác định bằng điều tra thực địa tại đỉnh cao của mùa truyền bệnh, ở tất cả các lứa tuổi hiện đang sốt hoặc có sốt trong vòng 24 giờ so với thời điểm điều tra.
Giai đoạn tiền loại trừ sốt rét được thực hiện cho đến khi nào tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) dưới 1 / 1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành hàng tháng trong năm thì có thể chuyển sang giai đoạn loại trừ sốt rét.
Giai đoạn loại trừ sốt rét
Trong giai đoạn này sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp phòng, chống sốt rét tích cực để làm giảm tỷ lệ chết do sốt rét, giảm tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) nội địa xuống dưới 1 / 1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành hàng tháng trong năm, có nghĩa là dưới 100 bệnh nhân sốt rét mới bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét dượng tính (+) ở 1 huyện có 100.000 dân. Triển khai chính sách sử dụng thuốc sốt rét mới phù hợp với tình hình; chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét cho người dân miễn phí, không thu tiền; tổ chức kiểm tra định kỳ chất lượng chẩn đoán ký sinh trùng sốt rét bằng kính hiển vi. Tăng cường phát hiện bệnh chủ động. Điều tra bệnh nhân và phân loại bệnh nhân sốt rét nội địa hay ngoại lai. Thường quy kiểm tra ký sinh trùng sốt rét bằng sinh học phân tử, điều tra các ổ bệnh sốt rét và phân loại ổ bệnh; thực hiện các biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh bằng hoá chất để làm giảm khả năng truyền bệnh tại các ổ bệnh; phòng mắc bệnh sốt rét cho khách du lịch; hợp tác chặt chẽ với y tế tư nhân cùng tham gia công tác loại trừ sốt rét; tiến hành chương trình truyền thông giáo dục phòng, chống sốt rét thứ hai nhằm làm thay đổi quan điểm và hành vi, đề phòng sốt rét quay trở lại trong nhân dân; bảo đảm nguồn thu thập số liệu từ các cơ sở y tế và các báo cáo. Số liệuđược xác định bằng điều tra thực địa tại đỉnh cao của mùa truyền bệnh.
Giai đoạn loại trừ sốt rét được thực hiện cho đến khi nào không còn ký sinh trùng sốt rét dương tính (+) hàng tháng trong năm, nghĩa là không phát hiện được trường hợp sốt rét mới nào lan truyền tại địa phương hàng tháng trong năm thì chuyển sang giai đoạn đề phòng sốt rét quay trở lại.
Giai đoạn đề phòng sốt rét quay trở lại
Tăng cường các biện pháp để củng cố và duy trì kết quả không còn ký sinh trùng sốt rét dương tính (+)nội địa hàng tháng trong năm; đề phòng và quản lý các trường hợp sốt rét ngoại lai. Nêu cao tính cảnh giác phòng bệnh sốt rét tại các cơ sở y tế. Phát hiện, điều tra đầy đủ các trường hợp sốt rétngoại lai; triển khai các biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh bằng hoá chất tại các vùng có trường hợp sốt rét ngoại lai; lồng ghép chương trình loại trừ sốt rét với các chương trình y tế khác; bảo đảm nguồn thu thập số liệu từ các cơ sở y tế và các báo cáo, báo cáo điều tra các trường hợp cần thiết để bổ sung thêm thông tin.
Sau 3 năm duy trì được kết quả này, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sẽ kiểm tra và công nhận lãnh thổ hoặc quốc gia đã loại trừ được bệnh sốt rét. Đến năm 2007, trên thế giới có 82 quốc gia đang triển khai chiến lược phòng chống sốt rét, 11 quốc gia đang triển khai giai đoạn tiền loại trừ sốt rét, 10 quốc gia đang triển khai giai đoạn loại trừ sốt rét, 4 quốc gia đang triển khai giai đoạn đề phòng sốt rét quay trở lại, 95 quốc gia và lãnh thổ đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kiểm tra công nhận không còn bệnh sốt rét.
Sau một thời gian thực hiện chiến lược tiêu diệt sốt rét, rồi chuyển sang chiến lược phòng chống sốt rét; từ năm 2006-2015 đất nước Malaysia đã và đang triển khai chiến lược loại trừ sốt rét với hy vọng của một quốc gia không còn bệnh sốt rét trong tương lai. Việt Nam cũng đã và đang có những nỗ lực, cố gắng phấn đấu thực hành các chiến lược để giải quyết bệnh sốt rét từ những kinh nghiệm có được của chiến lược tiêu diệt sốt rét ở miền Bắc (1958-1975), chiến lược thanh toán sốt rét sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng (1975-1991) và chuyển sang chiến lược phòng chống sốt rét (1991 đến nay).
Trong tương lai gần, hy vọng rằng đất nước ta cũng sẽ thực hiện được chiến lược loại trừ sốt rét để tiến tới một đất nước không còn bệnh sốt rét nhằm khẳng định những kết quả đã đạt được của Việt Nam.