Bệnh thường hay gặp ở những người lảm ruộng, lảm rẫy, chăn thả gia súc, đi chân đất... Nam có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn nữ và ghi nhận nhiều nhất ở lứa tuổi từ 20 đến 45. Những người sống ở các vùng nông thôn khi lao động bị những cây có gai đâm hoặc các vết xước nhỏ sẽ tạo điều kiện cho bào tử nấm ở không khí hay ở cây gai xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh u bướu.
Đặc điểm của bệnh u bướu do nấm
Bệnh u bướu do nấm (Mycetoma) là một loại bệnh viêm u hạt mãn tính (chronic granuloma), chúng tạo ra những tổn thương dạng u (tumor-like) và những lỗ dò do một số loại nấm và vi khuẩn (actinomycetes) xâm nhập vào người sau một chấn thương ở da gây ra. Tổn thương bắt đầu ở da, tổ chức dưới da; sau đó lan dần vào gân, xương. Bệnh thường gặp ở chân nên được gọi là bệnh “Madura foot”. Cũng có một số ít trường hợp mầm bệnh xâm nhập vào não, màng não và các cơ quan lân cận. Bệnh thường được phát hiện nhiều ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, ngoài ra còn có thể gặp ở vùng ôn đới.
Mầm bệnh có thể là nấm thực hay một số loại vi khuẩn thượng đẳng. Các tác nhân gây bệnh đều sống hoại sinh ở trong đất hoặc trên những loại thực vật và xâm nhập vào da qua sự tổn thương nhỏ ở da như vết xây xát, bị cây gai đâm...
Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn thượng đẳng thường gặp là các loại vi khuẩn thuộc họ Actinomycetaceae như Actinomadura madurae, Actinomadura pelletieri, Streptomyces somaliensis, Nocardia asteroides, Nocardia brasiliensis, Nocardia otitidiscaviarum, Nocardiopsis dassonvillei...
Tác nhân gây bệnh là nấm thực thường gặp là các loại nấm gây bệnh thuộc lớp nấm bất toàn (Fungi imperfecti) hoặc nấm túi (Ascomycetes) như Madurella mycetomatis, Madurella grisea, Pseudallescheria boydii, Acremonium kiliense, Acremonium recifei, Leptosphaeria tompkinsii, Leptosphaeria senegalensis, Exophiala jeanselmei, Neotestudina rosatii, Pyrenochaeta romeroi, Curvularia lunata, Aspergillus nidulans, Aspergillus flavus, Fusarium moniliforme, Fusarium solani, Corynespora cassicola, Cylindrocarpon destructans, Plenodomus avaramii, Polycytella hominis...
Triệu chứng bệnh lý
Mặc dù tác nhân gây bệnh khác nhau nhưng biểu hiện lâm sàng tương đối giống nhau. Tổn thương thường hay gặp ở bàn chân trong khoảng 2/3 các trường hợp nhiễm bệnh. Các vị trí khác như ở cẳng chân, tay, cổ, ngực, vai... cũng có thể gặp. Phần lớn các trường hợp đều bắt đầu bằng biểu hiện có những cục nhỏ, cứng, không đau, sau đó mềm dần, bị loét; xuất hiện các lỗ dò, chảy dịch dính, có mủ chứa các hạt nhỏ (granules); chúng khác nhau về kích thước, màu sắc và độ cứng tùy theo tác nhân gây bệnh nhưng đặc điểm bệnh nhân không có cảm giác đau.
Tổn thương thường tiến triển chậm, lây lan đến các tổ chức lân cận như xương. Trên phim chụp X quang có thể thấy dấu hiệu thương tổn hủy hoại xương và phản ứng tăng sinh của màng xương. Bệnh có thể kéo dài hàng chục năm, gây nên tình trạng biến dạng nặng nề làm cho bệnh nhân bị suy kiệt dẫn đến tử vong.
Một số loại nấm gây bệnh u bướu đã phân lập và phát hiện được ở các cơ quan nội tạng như nấm Scedosporidum ở máu, đờm; nấm Pseudallescheria boydii ở màng não, tiền liệt tuyến, đờm...
Chẩn đoán bệnh u bướu do nấm
Chẩn đoán bệnh u bướu do nấm bằng cách thu thập bệnh phẩm từ những hạt nhỏ lấy từ lỗ dò hoặc sinh thiết mô dưới da.
Xét nghiêm trực tiếp các hạt với phương pháp soi trong KOH và mực Parker hoặc nhuộm calcofluor white phát hiện thấy các đám hạt hình tròn, đường kính khoảng 15 µm.
Có thể thực hiện phương pháp giải phẩu bệnh bằng cách sinh thiết tổ chức nơi bị tổn thương rồi nhuộm H&E, PAS, Grocott’s methenamine silver (GMS). Kết quả phát hiện các hạt trắng, vàng hay đen ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng được xem là có giá trị chẩn đoán.
Phương pháp xét nghiệm trực tiếp hoặc giải phẩu bệnh lý nếu thấy được các sợi mảnh, đường kính dưới 1 µm là vi khuẩn; nếu thấy các sợi có đường kính lớn hơn tử 2 đến 6 µm, thô là nấm. Kết quả không cho phép xác định loài gây bệnh.
Ngoài ra, có thể dùng phương pháp nuôi cấy. Nếu xét nghiệm trực tiếp phát hiện nấm, các hạt thu thập được cần rửa trong dung dịch nước muối sinh lý và kháng sinh. Sau đó cấy vào môi trường Sabouraud có kháng sinh, không có cycloximid và nuôi cấy ở nhiệt độ khoảng từ 25 đến 37oC. Tốt nhất là là lấy được bệnh phẩm sinh thiết ở lớp sâu để tránh nhiễm tạp khuẩn. Nếu xét nghiêm trực tiếp thấy vi khuẩn, cấy trong môi trường thạch máu, Sabouraud, môi trường dịch chiết tim (BHI), môi trường Lowenstein ở nhiệt độ khoảng từ 25 đến 37oC.
Điều trị và phòng bệnh
Nếu mầm bệnh là vi khuẩn, dùng các loại thuốc kháng sinh như sulfonamide, dapson, co-trimoxazole, streptomycine.
Nếu mầm bệnh là nấm, sử dụng các loại thuốc chống nấm thuộc nhóm azole như ketoconazole, intraconazole, voriconazole...
Trong một số trường hợp, phải kết hợp phương pháp ngoại khoa cắt bỏ phần bị hoại tử; thậm chí phải cắt cụt chân kết hợp với việc dùng thuốc
Cách phòng bệnh tốt nhất là áp dụng các biện pháp, phương tiện bảo hộ lao động để bảo vệ khi làm việc hoặc có những hoạt động dễ bị thương tổn ở da. Nếu da bị thương tổnnhư xây xát, vết xước, gai đâm... cần sát trùng ngay chỗ tổn thương.
Khuyến cáo
Những người sống ở các vùng nông thôn, hàng ngày trong quá trình lao động như làm ruộng, làm rẫy, chăn thả gia súc, người thường hay đi chân đất... sẽ có nhiều nguy cơ nhiễm loại nấm gây u bướu khi bị vết xước, gai đâm... ở ngoài da và mầm bệnh có cơ hội xâm nhập vào cơ thể để gây bệnh. Loại bệnh này ít khi được người dân chú ý phòng ngừa, triệu chứng bệnh lý lâm sàng xảy ra không rõ ràng, việc chẩn đoán bệnh không dễ dàng nên cộng đồng dân cư, kể cả các thầy thuốc cần phải quan tâm trong việc chẩn đoán và điều trị để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra do phát hiện bệnh muộn.