Dân tộc Tày còn có tên gọi khác là dân tộc Thổ, có mặt ở Việt Nam từ rất lâu đời và cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh...), nhưng hiện nay đã di cư vào sinh sống ở các vùng núi thuộc miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên.
Dân tộc Tày có khoảng 1.477.514 người, trước kia thường sống ở các nhà sàn có nhiều hàng cột gỗ kê trên các hòn đá, mái làm theo kiểu vì kèo lợp bằng lá cọ, sàn nhà làm bằng phên tre, chung quanh nhà thưng bằng gỗ hoặc phên nứa; giữa nhà có bếp lửa bập bùng suốt ngày làm nơi nấu ăn, sinh hoạt, sưởi ấm trong các ngày đông giá lạnh, đồng thời cũng là hình thức xua đuổi muỗi và các loài côn trùng khác; hiện nay Nhà nước quản lý rừng chặt chẽ nên nhiều nhà người Tày đã chuyển sang nhà đất thưng bằng vôi vữa ngoài cốt tre nứa bên trong và mái lợp bằng ngói. Bữa ăn hàng ngày của người Tày thường là cơm tẻ ăn với các sản phẩm tự trồng được như bí, bầu, mướp hoặc rau hái trên rừng như rau dớn, rau tàu bay, rau ngót...; người Tày rất thích ăn xôi đồ trong các chõ xôi bằng gỗ, cơm nếp nấu hoặc cơm lam nấu trong các ống tre non, đây cũng là loại lương thực ăn đường mỗi khi phải đi đâu xa. Trong các ngày giỗ, tết, lễ lạt họ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh dầy, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo, chè lam, xôi nhuộm bằng các lá màu xanh, đỏ, tím...; đặc biệt có loại bánh bột hấp nhân bằng trứng kiến và cốm làm từ lúa nếp non hơ lửa hoặc rang chín rồi đem giã cho tróc hết vỏ trấu.
Trang phục cổ truyền của thiếu nữ Tày ( ảnh internet) |
Y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt nhuộm chàm, phụ nữ mặc váy hoặc quần, có cánh áo ngắn ở bên trong và áo dài bên ngoài không thêu thùa trang trí. Khi lên nương thu hoạch hoặc trao đổi hàng hóa ở chợ phiên, những thứ nhỏ gọn thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải chàm đeo trên vai, còn với những thứ to lớn cồng kềnh thường dùng sức người khiêng hoặc trâu kéo, ngoài ra còn dùng bè mảng để vận chuyển trên sông suối.
Về phong tục tập quán người Tày, nam nữ được tự do yêu đương tìm hiểu hoặc bố mẹ có thể nhắm ý hỏi vợ cho con cái, sau khi cưới cô gái phải về làm dâu ở nhà chống, trước khi ra ở riêng được phân một căn buồng có đủ tiện nghi ở góc nhà sàn. Trong bữa ăn con dâu và phụ nữ phải mâm riêng, không ngồi chung với bố chồng và các anh trai trong nhà. Đám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới, sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên, hàng năm cúng vào ngày giỗ và ngày lễ tết. Người Tày có bản sắc văn hóa đặc biệt về văn nghệ với nhiều làn điệu dân ca như sí lượn, lượn nàng ới là lối hát giao duyên được phổ biến ở nhiều vùng; trong các ngày hội lồng tồng, đám cưới, mừng nhà mới... thanh niên nam nữ thường tụ tập hát sí lượn qua đó tìm hiểu thương yêu nhau cùng với nhiều trò chơi như ném còn, đánh quay, kéo co, chơi cờ tướng...
 |
Lể hội của người Tày ( ảnh internet) |
Nghề nghiệp chính là làm nông, có truyền thống làm ruộng nước với hình thức thâm canh bằng mương máng thủy lợi, đắp phai, làm cọn nước tưới ruộng; đến mùa thu hoạch họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ gọi là loỏng sau đó mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài ra người Tày còn trồng trọt lúa khô và hoa màu trên nương rẫy, trồng cây ăn quả trong vườn nhà, chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm bằng cách thả rông là chủ yếu. Các nghề thủ công tự phục vụ cuộc sống gia đình cũng được phát triển như đan lát giá, rổ, nong, nia...; nhưng đáng chú ý nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều hoa văn đẹp và độc đáo cùng các bộ quần áo chàm đặc sắc tạo nên các sản phẩm đặc trưng của dân tộc Tày.
Hiện nay cuộc sống người Tày có nhiều thay đổi và trở thành dân tộc thiểu số đông dân nhất, đặc điểm sống người Tày thường sống thành bản từ 15-30 nhà rải rác ở các vùng bìa rừng gần suối hoặc tập trung tại một vùng đất trống bằng phẳng. Do điều kiện đất đai ở các tỉnh miền núi phía Bắc chặt hẹp cằn cỗi nên trong vòng hơn 10 năm nay làn sóng người Tày cùng với một số người dân tộc khác (Hờ Mông, Mèo, Thái...) di cư tự do vào các tỉnh Tây Nguyên tìm “miền đất hứa” ngày càng đông, người đi trước thông báo cho người đi sau nên họ kéo nhau đi cả gia đình, thậm chí cả bản gây nhiều khó khăn cho nơi có dân đến. Điều đáng chú ý là làn sóng người dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc di cư tự do chủ yếu ở các vùng rừng núi Tây Nguyên, không chỉ dẫn đến việc phát rừng làm nương theo cách canh tác của họ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc tàn phá các khu rừng nguyên sinh mà họ còn phải đối mặt với bệnh sốt rét và nhiều bệnh dịch do không có sự bảo vệ y tế, tuy nhiên do có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét, nhất là phong tục ngủ màn nên tỷ lệ nhiễm sốt rét của người Tày ở các tỉnh Tây Nguyên qua các đợt điều tra không cao.
|
Thi gói bánh sừng bò của dân tộc Tày. Ảnh: Sơn Hải |
Từ đặc điểm sống, phong tục tập quán của người Tày và phân bố của họ hiện nay không chỉ ở miền núi phía Bắc mà còn ở Tây Nguyên đã góp phần làm phân bố các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đan xen, hòa quyện lẫn nhau tạo nhiều sắc màu dân tộc phong phú ở hầu khắp mọi vùng miền. Với chính sách dân tộc hiện nay, Nhà nước cũng như các cấp chính quyền các nơi có dân đi cũng như có dân đến đang từng bước giúp đỡ họ ổn định cuộc sống cũng như phòng chống bệnh tật cho họ nhằm giúp người Tày cũng như các dân tộc thiểu số khác sớm hòa nhập với điều kiện kinh tế địa phương.