Người dân tộc Cơ Lao còn có các tên gọi khác là người Ke Lao, Cờ Lao. Dân tộc Cơ Lao thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai, cư trú tập trung ở huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Tín ngưỡng chính là đa thần, thờ phụng tổ tiên. Họ là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc của Việt Nam. Ngoài ra, dân tộc này còn sinh sống tại Trung Quốc ở khu vực phía Tây tỉnh Quý Châu, một số ít ở các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam.
Dân số và địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Lao tại Việt Nam chỉ có dân số 2.636 người nhưng có mặt tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người dân tộc Cơ Lao cư trú tập trung tại tỉnh Hà Giang 2.301 người, chiếm tỷ lệ 87,3% tổng số người Cơ Lao tại Việt Nam; ngoài ra còn cư trú ở tỉnh Tuyên Quang 69 người, Thành phố Hà Nội 50 người, Thành phố Hồ Chí Minh 25 người...
Về đặc điểm kinh tế, tổ chức cộng đồng
Ở Đồng Văn, người Cơ Lao làm nương rẫy, gieo trồng ngô ở hốc núi đá. Ở Hoàng Su Phì, đồng bào làm ruộng nước, trồng lúa là chính. Nghề thủ công phổ biến của đồng bào dân tộc Cơ Lao là đan lát, làm đồ gỗ; sản phẩm là phên, cót, nong, bồ, bàn, ghế, yên ngựa...
Mỗi bản của người Cờ Lao có khoảng từ 15 đến 20 nóc nhà. Mỗi nhà là một gia đình nhỏ gồm vợ chồng và con cái; con trai có vợ ít khi ở chung với bố mẹ. Mỗi nhóm dân tộc Cơ Lao có một số họ nhất định. Các con đều theo họ cha.
Về phong tục tập quán
Đối với hôn nhân gia đình, người dân tộc Cơ Lao theo phong tục con trai cô được lấy con gái cậu. Người phụ nữ Cơ Lao khi mang thai thường kiêng cữ cẩn thận để sinh đẻ dễ dàng, con cái khỏe mạnh. Ở vùng Đồng Văn, người dân tộc Cơ Lao đốt nhau của đứa trẻ sơ sinh thành than rồi đem bỏ vào hốc đá trên rừng, tránh để cho chó hay lợn giẫm vào. Đứa trẻ sau khi sinh ra được 3 ngày 3 đêm (nếu là con trai), 2 ngày 3 đêm (nếu là con gái) thì bố mẹ làm lễ đặt tên cho con. Đứa con đầu lòng được bà ngoại đặt tên cho.
Trong tập tục ma chay, người dân tộc Cờ Lao khi chết được làm lễ chôn cất và lễ chay. Khi chôn cất thì xếp đá thành từng vòng quanh mộ, mỗi vòng đá tương ứng với 10 tuổi của người chết rồi lấp đất kín những vòng đá ấy.
Về văn hóa, hàng năm người dân tộc Cơ Lao có những ngày lễ, tết theo âm lịch như ngày 3 tháng 3, 5 tháng 5, 15 tháng 7, 9 tháng 9... Tết Nguyên đán là ngày lễ lớn nhất.
Về nhà cửa, người dân tộc Cơ Lao ở nhà đất, thường là loại nhà ba gian hai chái; mái lợp tranh. Ở Hoàng Su Phì đôi khi người ta lợp bằng những máng nứa theo kiểu lợp ngói âm dương. Vách đan bằng nứa, có khi người ta đan bằng những cây gỗ nhỏ...
Về trang phục, người dân tộc Cơ Lao có cá tính trang phục không rõ ràng, chịu ảnh hưởng của trang phục gần gũi với cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái như Tày, Nùng, Giáy... về kỹ thuật và phong cách mỹ thuật. Đàn ông người Cơ Lao mặc quần như nhiều dân tộc khác ở vùng biên giới phía Bắc. Phụ nữ người Cơ Lao mặc quần, áo dài 5 thân cài nách, dài quá đầu gối, được trang trí bằng nhiều miếng vải khác màu khâu đáp lên ngực áo từ giữa ngực sang nách phải, theo mép xẻ.