Các dân tộc nước ta là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú phân tán và đan xen nhau trên mọi miền với cơ cấu dân số và trình độ phát triển không đồng đều. Bản sắc văn hóa từng dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam.
Đoàn kết các dân tộc luôn là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta; là đường lối, chủ trương nhất quán của Đảng ta được xác định từ khi mới thành lập và được cụ thể hóa trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Các dân tộc ở nước ta có truyền thống đoàn kết, xây dựng một cộng đồng thống nhất. Trong mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta, đoàn kết thống nhất các dân tộc là đặc điểm nổi bật nhất, xuyên suốt mọi thời kỳ trong lịch sử dân tộc. Các dân tộc sinh sống trên đất nước ta ở những giai đoạn khác nhau bao giờ cũng có chung một vận mệnh lịch sử. Đoàn kết gắn bó là bảo đảm sự sống còn của từng dân tộc cũng như của cả cộng đồng các dân tộc trong quá trình phát triển.
Các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Vùng dân tộc và miền núi nước ta chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, bao gồm 21 tỉnh miền núi vùng cao, 23 tỉnh có huyện, xã là núi và 10 tỉnh đồng bằng có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Trong lịch sử phát triển đất nước, địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số là địa bàn chiến lược xung yếu, là phên dậu trấn giữ, bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, núi rừng Việt Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ... đã trở thành những khu căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là nơi cung cấp sức người, sức của, góp phần tạo nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
 |  |
văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam trải rộng suốt 5 tỉnh Tây Nguyên và chủ nhân của nó là các dân tộc Bana, Xê-đăng, M nông, Cơho, Ê đê, Giarai… (ảnh sưu tầm:http://doanhnhan360.com.vn) | Con trai dân tộc Mông mặc quần màu đen, ống rất rộng để có thể leo đồi, núi và múa khèn dễ dàng. (ảnh sưu tầm: http://www.baoyenbai.com.vn) |
Tuy có quy mô dân số và trình độ phát triển kinh tế-xã hội không đều nhau, song đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng đất nước. Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, nước ta có 54 thành phần dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% dân số của cả nước. Trong các dân tộc thiểu số, quy mô dân số cũng có sự chênh lệch đáng kể, có những dân tộc thiểu số có dân số trên một triệu người (Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa), nhưng cũng có các dân tộc thiểu số có số dân rất ít, một số dân tộc thiểu số có số dân dưới 1.000 người (Si La, Pu Péo, Rơ Mã, B Râu, Ơ Đu). Hình thái cư trú phổ biến của dân tộc ở nước ta là sống xen kẽ nhau. Xu hướng sống xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng có chiều hướng gia tăng, điều đó tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường quan hệ mọi mặt, tăng cường hiểu biết lẫn nhau cùng tiến bộ trong cuộc sống và phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc, cùng nhau thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng công tác phát triển các vùng dân tộc, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị (1989) về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi và Nghị quyết số 24-NQ/TW (2003) về công tác dân tộc, cùng nhiều văn bản của Chính phủ, bộ, ngành, các địa phương đã được ban hành và thực hiện có hiệu quả trên thực tế... Để hoạch định chính sách dân tộc phù hợp với đặc thù của mỗi vùng miền, của từng đối tượng cụ thể và để chính sách ban hành sớm đi vào cuộc sống, các vùng miền của đồng bào dân tộc thiểu số đã được phân định theo điều kiện địa lý tự nhiên, theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Từ việc phân định này đã hình thành và triển khai thực hiện từ năm 1998. Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Với việc lựa chọn các địa bàn đặc biệt khó khăn để tập trung đầu tư là sự đổi mới về nhận thức và phương pháp xây dựng chính sách dân tộc và tổ chức thực hiện công tác dân tộc. Chọn nơi khó nhất, nghèo nhất để tập trung ưu tiên đầu tư, hỗ trợ. Với cách làm như vậy đã góp phần rất lớn trong việc hạn chế sự “dãn ra” khoảng cách chênh lệch về đời sống kinh tế-xã hội giữa các vùng miền và các dân tộc. Giải quyết đúng đắn, hài hòa việc tập trung đầu tư, hỗ trợ theo vùng và phương thức công tác dân tộc hiện nay.
Trong những năm qua, đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số đã được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3% đến 4%/ năm. Đến nay, hơn 40 tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số (trên 2 vạn người) đã cơ bản xóa hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 50% xuống dưới 30%; trong số này có hơn 20 tỉnh đã giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 20%. Năm 2009, chương trình 135 giai đoạn II với nguồn vốn hơn 3.700 tỷ đồng đã được đầu tư tại 1.779 xã đặc biệt khó khăn, 3.149 thôn, bản đặc biệt khó khăn; 12.377 công trình cơ sở hạ tầng được đưa vào sử dụng; 18.400 lượt người dân được tham gia tập huấn về ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật...
Kết cấu hạ tầng nhất là giao thông nông thôn, thủy lợi, điện, trường học, trạm xá được cải thiện đáng kể. Đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, nhà sinh hoạt cộng đồng được quan tâm giải quyết; một số nhà tạm bợ, dột nát giảm nhanh. Sự nghiệp phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đồng bào các dân tộc thiểu số được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đã và đang đạt nhiều thành tựu rất nổi bật. Năm 1995, cơ bản xóa xong mù chữ, năm 1997, cơ bản phổ cập giáo dục tiểu học. Ở các tỉnh có hơn 1 vạn người và các huyện có hơn 5.000 người là người dân tộc thiểu số đều có trường phổ thông dân tộc nội trú thu hút hàng vạn học sinh người dân tộc thiểu số vào học qua các năm. Năm 2008 đã có 45/46 tỉnh cơ bản phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Từ năm 1995 đến nay, mỗi năm Nhà nước bố trí bình quân ít nhất 1.000 xuất cử tuyển đại học, cao đẳng cho con em các dân tộc thiểu số. Hơn 10 dân tộc thiểu số có người có trình độ tiến sĩ...
Hệ thống chính trị được củng cố, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng; chính sách dân tộc được thực hiện tốt hơn. Quốc phòng, an ninh ở vùng dân tộc và miền núi, vùng sâu, vùng xa được tăng cường. Chính trị ổn định, kinh tế phát triển, xã hội đồng thuận, dân tộc đoàn kết. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tiếp tục được củng cố và tăng cường, sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chính sách dân tộc là cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, tác động trực tiếp đến các thành phần dân tộc, đến mối quan hệ giữa các dân tộc trong nước và quan hệ với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Xét về mục tiêu, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là khai thác mọi tiềm năng đất nước để phục vụ nhân dân, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống con người, đưa các đồng bào dân tộc thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu.