Ngày 19/6/2010: Cháy lớn công trình bệnh viện đa khoa Thốt Nốt; Kon Tum: Nguy cơ bùng phát bệnh lao;73,5% bệnh nhân ung thư tử vong; ĐBSCL: nơm nớp lo bệnh tả; Náo loạn một vùng quê vì tin đồn nước giếng chữa bệnh; Xương heo mắc trong phế quản sáu tháng.
Ngày 20/6/2010: Có quản lý được chất lượng thuốc nhập khẩu?; WHO công bố cẩm nang dược phẩm cho trẻ em; Đề nghị góp 300 triệu USD cho các chương trình da cam; Lần đầu tiên ghép tim thành công tại Việt Nam
Tuổi trẻ
Nuôi thành công bé sinh non 500g
Ngày 18/6, giám đốc Bệnh viện Phụ sản T.Ư Nguyễn Viết Tiến cho biết lần đầu tiên bệnh viện này đã nuôi thành công bé sinh non nặng 500g.
Em bé may mắn là một bé gái, sinh ngày 31/3/2010 khi thai nhi mới ở tuần thứ 25. Ngay sau khi bé ra đời, các bác sĩ đã gặp rất nhiều khó khăn trong nuôi dưỡng do em bé phải nuôi hoàn toàn bằng đường truyền, chưa kể các nguy cơ viêm ruột, hoại tử ruột, dễ kiệt sức do vận động bên ngoài...
Đến hôm 18/6, sau hơn hai tháng rưỡi được chăm sóc tại bệnh viện, bé đã nặng 1,7kg, mỗi ngày ăn tám bữa sữa, mỗi bữa 70ml.
Theo ông Tiến, đây là bé có trọng lượng khi sinh nhỏ nhất nuôi thành công cho đến nay tại bệnh viện. Trên thế giới, bé sinh non nhỏ nhất đã được nuôi thành công có trọng lượng khi sinh là 350g.
Lần đầu tiên ghép tim thành công tại Việt Nam
Ngày 19/6, giám đốc Học viện Quân y Nguyễn Tiến Bình cho biết ca ghép tim đầu tiên trên người tại VN, với quả tim được hiến tặng từ người chết não (được thực hiện tại Bệnh viện 103, Học viện Quân y hôm 17/6) đã thành công.
Bệnh nhân được ghép tim đầu tiên là anh B.V.N. (48 tuổi, ở Nam Định) mắc chứng cơ tim giãn, suy tim độ 4 nhiều năm. Sau hơn hai ngày thực hiện ca ghép, anh N. đã tỉnh táo và chuẩn bị được tập đi.
Theo ông Bình, ngoài các bác sĩ của Học viện Quân y, Bệnh viện 103 và nhiều bệnh viện của VN, ca ghép còn có sự hỗ trợ của chuyên gia Đài Loan. Phía Đài Loan đã hỗ trợ chuyển giao công nghệ ghép tim. Tại Bệnh viện 103, ngoài ca ghép kể trên hiện còn có năm bệnh nhân giãn cơ tim, suy tim độ 4 đang chờ được ghép tim.
Tuổi trẻ, Sức khỏe & Đời sống, Lao động
ĐBSCL: nơm nớp lo bệnh tả
Sau hơn một tháng hoành hành tại tỉnh Bến Tre, mấy ngày qua bệnh tả đã xuất hiện ở tỉnh Tiền Giang và An Giang làm ngành y tế nơm nớp lo ngại bệnh tả và tiêu chảy cấp sẽ bùng phát trong thời gian tới. Đến ngày 18/6, tỉnh Bến Tre đã có 50 bệnh nhân tả, Tiền Giang hai ca. Đặc biệt, tỉnh An Giang mới phát hiện thêm năm ca sau khoảng năm tháng yên ắng.
Ngày 18/6, tại Bệnh viện (BV) Đa khoa khu vực cù lao Minh (huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre) có hai bệnh nhân tiêu chảy cấp nhập viện và được chẩn đoán nghi tả. Bệnh nhân Lê Văn Sáu, 57 tuổi, ngụ xã Nhuận Phú Tân, huyện Mỏ Cày Bắc, kể sáng sớm ông ra quán cháo lòng gần nhà ăn sáng và hai giờ sau bị tiêu chảy, nôn ói phải đi cấp cứu. Theo BV Đa khoa khu vực cù lao Minh, ông Sáu là bệnh nhân tiêu chảy cấp thứ 545 của tỉnh Bến Tre được ghi nhận. Ngành y tế đã lấy mẫu xét nghiệm xem ông Sáu có bị bệnh tả hay không.
Hiện khoa nhiễm của BV vẫn còn khá đông bệnh nhân tiêu chảy cấp và bệnh tả đang truyền dịch cấp cứu. Các bác sĩ và điều dưỡng đều tỏ ra rất mệt mỏi sau hơn một tháng “vật lộn” với hàng trăm bệnh nhân nhập viện. Bác sĩ Lê Thị Kim Loan (khoa nhiễm) cho biết từ giữa tháng 5 đến nay bệnh nhân tiêu chảy cấp và tả nhập viện liên tục. Trung bình hơn 10 ca/ngày, lúc cao điểm hơn 20 ca/ngày, bệnh nhân nằm kín cả hành lang của khoa.
Thanh niên, Sức khỏe & Đời sống
73,5% bệnh nhân ung thư tử vong
Nguyên nhân của thực trạng này chủ yếu là do bệnh nhân ung thư thường được phát hiện muộn, điều trị muộn.
PGS.TS. Mai Trọng Khoa, Phó Giám đốc BV Bạch Mai cho biết, tỷ lệ mắc ung thư hiện nay đang có xu hướng gia tăng tại tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Điểm đáng chú ý là trong khi tỷ lệ phát hiện bệnh ở các nước phát triển cao nhưng tỷ lệ tử vong thấp hơn (khoảng 50 – 65%), ở những nước đang phát triển, tỷ lệ tử vong rất cao trên tổng số mắc.
Tại Việt Nam, điều tra y tế mới đây cho thấy tỷ lệ tử vong do mắc ung thư lên đến 73,5%. Thời gian điều trị bệnh ung thư ở nước ta cũng kéo dài và khó khăn hơn.
Theo PGS. TS. Mai Trọng Khoa, người dân cần tránh tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh, nhất là nên đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện và khống chế sớm bệnh ung thư cũng như các nguy cơ bệnh tật khác.
Thanh niên
Hiện trạng xử trí kém khi cấp cứu trẻ sơ sinh
Theo thống kê của BV Nhi Trung ương, trung bình mỗi tháng BV tiếp nhận hơn 2.000 trường hợp trẻ vào cấp cứu.
Trong đó, có tới 0,3% số trẻ cấp cứu bị tử vong do xử trí ban đầu sai của y tế tuyến cơ sở và cả người dân trong quá trình cấp cứu, vận chuyển bệnh nhân lên tuyến trung ương. Số ca tử vong đáng tiếc gặp nhiều nhất ở bệnh nhi bị suy hô hấp, chủ yếu là trẻ sơ sinh. Đáng nói, tỷ lệ trẻ tử vong trong 24 giờ đầu đang có chiều hướng gia tăng do chất lượng khâu cấp cứu và vận chuyển chưa cao, đặc biệt là cấp cứu ban đầu. Tình trạng trẻ suy hô hấp được vận chuyển đến bằng xe máy; trẻ bị bỏng, chấn thương nặng vận chuyển bằng xe không chuyên dụng, không có hệ thống hồi sức… cấp cứu còn phổ biến.
Xương heo mắc trong phế quản sáu tháng
Hôm qua, 18/6, bệnh nhân Võ Dũng (49 tuổi, trú phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng) đã dần ổn định sau ca phẫu thuật lấy miếng xương heo nằm trong phế quản suốt 6 tháng trời.
Theo người nhà bệnh nhân, ông Dũng có biểu hiện đau cổ họng, ho ra máu nhiều lần từ cách đây 6 tháng sau lần đi ăn ở ngoài về. Đến ngày 16/6, bệnh nhân nhập viện, cấp cứu tại Bệnh viện Đà Nẵng trong tình trạng sốt cao, ho, suy hô hấp…
Các bác sỹ khám và phát hiện một dị vật nằm trong phế quản của phổi. Bác sỹ Huỳnh Bá Tân - Trưởng Khoa tai mũi họng cho biết: Ê kíp tiến hành phẫu thuật tiến hành trong hơn 1 giờ đồng hồ và lấy ra miếng xương heo 1,5x1,5 cm cùng khoảng 50 cc mủ nằm trong phổi do bị nhiễm trùng lâu ngày.
Náo loạn một vùng quê vì tin đồn nước giếng chữa bệnh
Tin rằng uống nước giếng tại thôn 1, xã Tam Hòa (Núi Thành, Quảng Nam) chữa được nhiều bệnh, hơn 2 tháng qua, hàng ngàn người dân từ TP Đà Nẵng, Quảng Ngãi và dân địa phương đổ xô về đây để uống nước và lấy nước về dùng, gây náo loạn làng quê.
Nước giếng làm lành bệnh gan?
Giếng nước có tên là giếng bà Lĩnh nằm cạnh công trình nước sạch do tổ chức Đông Tây hội ngộ xây dựng cho xã Tam Hòa cách đây khoảng 5 năm.
Khuôn viên giếng nước rộng chưa tới 10m2, giếng sâu khoảng 4m không hề được che đậy, xung quanh hương khói nghi ngút. Hàng trăm người có mặt từ sáng sớm chờ đến lượt mình lấy nước. Kẻ thắp hương, người khấn vái, người múc người uống làm xao động cả một góc làng. Nhiều người dẫn theo con nhỏ đến để cho con uống nước và tắm rửa cho con ngay tại giếng để con được... khỏe mạnh.
Theo người dân thôn 1 xã Tam Hòa, giếng nước này bị bỏ hoang nhiều năm nay. Cách đây khoảng 3 tháng, khi tình hình cúp cắt điện, thiếu nước xảy ra thường xuyên, dân trong thôn bỏ tiền tu sửa lại giếng nước, để lấy nước sinh hoạt. Tuy nhiên, cũng từ đó thông tin về nước giếng này được đồn thổi là trị được bệnh, hàng ngàn người dân kéo về đây xin nước.
Ông Trần Văn Thống, Trưởng thôn 1, xã Tam Hòa cho biết: “Tin đồn về người dân địa phương uống nước lành bệnh gan khiến chúng tôi cũng bất ngờ, vì bỗng chốc, giếng làng trở thành giếng nước tiên”.
Chị Võ Thị Quyền, sống gần giếng nước, và là người chịu trách nhiệm trông coi công trình nước sạch kề bên không khỏi bức xúc: “Ai đời lại tin nước giếng trị bệnh được bao giờ. Người dân kéo về như hội cả ngày lẫn đêm làm dân làng mất ăn mất ngủ!”.
Ông Võ Thành Lạc, Chủ tịch UBND xã Tam Hòa cho biết: “Trước mắt, chúng tôi tổ chức vận động tuyên truyền người dân không nên uống nước giếng, vì nguy cơ nhiễm bệnh rất cao. Chúng tôi đã yêu cầu trạm y tế xã gửi mẫu nước lên Trung tâm y tế dự phòng xét nghiệm chất lượng nước. Nếu nước nhiễm bẩn ảnh hưởng sức khỏe của người dân, sẽ nghiêm cấm người dân lấy nước giếng này!”.
Lao động
Kon Tum: Nguy cơ bùng phát bệnh lao
Ở tỉnh Kon Tum, mặc dù các ngành chức năng cũng đã có nhiều nỗ lực, cố gắng nhằm khống chế, kiểm soát, ngăn chặn bệnh lao, nhưng do một số nguyên nhân khác nhau nên nguy cơ bùng phát bệnh lao trên địa bàn tỉnh Kon Tum rất lớn.
Theo số liệu tổng hợp từ Trung tâm Phòng, chống bệnh xã hội tỉnh Kon Tum, từ năm 2006 đến năm 2009, trên địa bàn toàn tỉnh phát hiện 1.202 người mắc bệnh lao ở các thể và số bệnh nhân này cũng đã đăng ký điều trị. Cũng theo số liệu từ trung tâm này, kết quả điều tra mỗi năm trong 100.000 dân thì có đến 85 trường hợp người mắc lao có khuẩn. Mặc dù số bệnh nhân lao được phát hiện và điều trị khỏi hằng năm đều tăng, nhưng tỉ lệ phát hiện trong thực tế mới chỉ đạt 50-60%.
Bác sĩ Nguyễn Minh Hùng Giám đốc Trung tâm Phòng, chống bệnh xã hội cho rằng, điều kiện kinh tế của những bệnh nhân lao rất khó khăn, phần lớn bệnh nhân lao thuộc diện hộ nghèo.
Khi điều trị bệnh bằng phác đồ điều trị mới thì yêu cầu bệnh nhân uống thuốc lúc bụng đói; song phần lớn bệnh nhân thuộc diện nghèo, ít được bồi dưỡng trong điều trị bệnh nên bệnh nhân có biểu hiện giống như say thuốc khi uống thuốc, một số người đã không duy trì phác đồ điều trị, bỏ “nửa chừng”.
Mặt khác, thuốc chống lao có thể mua dễ dàng tại các quầy thuốc tư nhân, chưa có sự phối hợp giữa chương trình chống lao và y tế tư nhân nên nguy cơ kháng thuốc của bệnh nhân lao là rất lớn.
Nguồn nhân lực thực hiện công tác phòng, chống bệnh lao ở tuyến huyện lại còn bi đát hơn. Theo yêu cầu thì mỗi huyện phải có 3 biên chế thực hiện phòng, chống lao (1 bác sĩ, 1 kỹ thuật viên xét nghiệm và 1 phụ trách công tác dược, thống kê, báo cáo); song, tỉnh Kon Tum có 8 huyện và 1 thành phố, mỗi địa phương này chỉ có 1 y sĩ chuyên trách công tác phòng, chống lao nhưng lại phải... kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, thường xuyên thay đổi!
Tuyến tỉnh và tuyến huyện thiếu và yếu nguồn nhân lực thực hiện công tác phòng, chống lao đã đành; nhân viên y tế, cộng tác viên ở tuyến xã, phường, thị trấn có những quan niệm sai lầm về bệnh lao, đáng lo ngại hơn là 49% số cán bộ này không biết chữa lao đúng cách và 72% không biết bệnh lao lây lan từ những đường chủ yếu nào!
Một bác sĩ chuyên trách công tác phòng, chống lao gần 20 năm - lo lắng cho sự nghiệp phòng, chống lao tỉnh Kon Tum - nói như than thở: “Gần 20 năm tôi công tác trong ngành này, chưa thấy một cán bộ y tế nào tự nguyện xin về làm công tác chống lao. Nếu có người về công tác thì được vài năm, họ tìm mọi lý do để đi học nâng cao trình độ rồi... chuyển công tác khác, hoặc xin chỗ khác để làm việc”.
Bác sĩ Bùi Trọng Trí-Phó Giám đốc Trung tâm Phòng, chống bệnh xã hội tỉnh Kon Tum - cảnh báo rằng:”Nếu nguồn nhân lực được đào tạo chuyên khoa lao từ những năm trước, nay chuyển sang công tác ở các lĩnh vực khác mà không có cán bộ mới được tuyển dụng thì chỉ cần 3 năm nữa, mạng lưới chống lao trên địa bàn tỉnh Kon Tum chỉ còn các nhà quản lý mà không có cán bộ chuyên môn và cán bộ chống lao tuyến dưới”.
70% người nhiễm HIV vẫn nằm trong “bóng tối”
Là tỉnh có tổng số người nhiễm HIV/AIDS cũng như tỉ suất người nhiễm/100.000 đứng thứ 4 trên cả nước, nhưng các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại ở Sơn La đều rất nghèo nàn.
Sự kỳ thị với người nhiễm HIV/AIDS và thiếu vắng các phương tiện xét nghiệm khiến 70% người nhiễm nằm trong "bóng tối", chưa được phát hiện và can thiệp điều trị.
Mẹ lây HIV cho con: Nhiều giật mình!
Trong nhóm phụ nữ mang thai, tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS lên tới 0,69% so với tỉ lệ trung bình trên toàn quốc là 0,28%. Một con số đáng giật mình hơn nữa là nếu không can thiệp thì tỉ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con khoảng 30%. Nhưng trên thực tế, con số này ở Sơn La cao tới 57%.
Lý do dẫn đến tỉ lệ bất thường này, BS Đàm Văn Hưởng, GĐ Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS tỉnh cho biết: Các đợt khám sức khoẻ phụ khoa cho chị em phụ nữ, trong đó có những người làm tại nhà hàng, khách sạn, tỉ lệ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục lên tới 100%. Ở những người mắc các bệnh xã hội, cơ hội lây HIV sẽ tăng lên rất nhiều.
Mỗi năm, có khoảng 800 – 900 người nhiễm mới được xét nghiệm và ghi nhận. Có 34 xã/phường ở TP.Sơn La, các huyện Mai Sơn, Mộc Châu, Thuận Châu, Mường La có triển khai các chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại. Trong khi đó, Sơn La có 206 xã/phường. Như vậy, mới chỉ 10% xã được phủ các chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại là bao cao su và bơm kim tiêm. Vì thế, 2/3 số người nhiễm HIV ở đây còn chưa được phát hiện cũng là điều dễ hiểu.
Theo BS Phạm Quang Phước, GĐ BV đa khoa tỉnh cho hay, chưa có trường hợp bà mẹ nào nhiễm HIV đến xét nghiệm và uống thuốc dự phòng lây cho con. Còn số trẻ em nhiễm HIV được đưa đến khám và theo dõi sức khoẻ chỉ khoảng 10 cháu….
..Tuy những biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại còn được tiến hành khá e dè ở Sơn La, nhưng từ đầu năm 2010, liệu pháp điều trị nghiện thuốc phiện bằng thuốc methadone đã bắt đầu được nói đến tại một số cuộc nghị bàn. Năm 2006, Sơn La đã xây dựng mô hình cụm xã không có ma tuý, vận động người tiêm chích đi cai nghiện tại các Trung tâm 05 – 06. Tuy nhiên, đến nay theo con số thống kê chính thức, số người tiêm chích có hồ sơ quản lý vẫn là khoảng 12.400 người. Cũng như các tỉnh/TP khác, Sơn La cũng đối diện với thực tế tỉ lệ người tái nghiện ngày càng cao. Khi mà 85% số người nhiễm HIV vẫn bắt nguồn từ cộng đồng tiêm chích, liệu pháp methadone được coi là giải pháp khả thi.
Sức khỏe & Đời sống
Cháy lớn công trình bệnh viện đa khoa Thốt Nốt
Khoảng 14 giờ 50 ngày 17/6, một đám cháy bùng phát dữ dội đã xảy ra tại công trình xây dựng Bệnh viện Đa khoa Thốt Nốt, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.Khu vực xảy hỏa hoạn được xác định tại tầng ba của công trình đang xây dựng.Nhận được tin báo cháy, Đội Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy khu vực Thốt Nốt đã điều một xe chữa cháy cùng 16 cán bộ chiến sĩ tới hiện trường để lên phương án tiến hành khống chế ngọn lửa. Sau 20 phút xảy ra hỏa hoạn, ngọn lửa được khống chế và dập tắt. Vụ hỏa hoạn xảy ra trong lúc nhiều công nhân đang thi công tại công trình xây dựng nên đã làm cho nhiều công nhân hoảng loạn chạy ra ngoài. Rất may không có thương vong về người. Theo nhận định ban đầu của cơ quan chức năng, đám cháy bắt đầu bùng cháy dữ dội từ đường điện ở tầng ba của Bệnh viện. Rất có thể vụ hỏa hoạn xảy là ra do chập điện.
Hỏa hoạn làm hư hỏng ba máy lạnh và để lại nhiều vệt nám đen ám khói tại tầng ba của công trình đang xây dựng.
Gia đình & Xã hội
Có quản lý được chất lượng thuốc nhập khẩu?
Một sự cố hy hữu do thuốc nhập khẩu xảy ra tại Bệnh viện Mắt TP.HCM đầu tháng 6 vừa qua đã khiến không ít người lo lắng vì nếu là thuốc trôi nổi trên thị trường còn khó kiểm soát chứ thuốc tại Bệnh viện, qua rất nhiều khâu kiểm tra mà vẫn lọt khe thì quả là điều đáng bàn.
Một loại dung dịch chỉ thị màu nhập khẩu từ Ấn Độ dùng để quét lên phaco trong phẫu thuật phaco khiến hàng chục người bị nhiễm trùng. Song theo bà Trần Thị Phương Thu - Giám đốc Bệnh viện Mắt TP.HCM cho biết, trước kia, bệnh viện cũng dùng loại thuốc trên. Tuy nhiên, việc nhiễm trùng chỉ xảy ra trên nhiều bệnh nhân khi bệnh viện sử dụng lô thuốc mới. Sau khi ngưng sử dụng lô thuốc mới thì những ca phẫu thuật phaco sau đó không thấy có vấn đề gì. Hiện bệnh viện đã lấy mẫu thuốc, mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân gửi đi xét nghiệm. Qua sự việc đáng tiếc kể trên chúng tôi đã tìm gặp các cơ quan chức năng để tìm hiểu việc quản lý chất lượng thuốc đặc biệt là thuốc nhập khẩu hiện nay.
TS Trương Quốc Cường, Cục trưởng Cục Quản lý dược Bộ Y tế cho biết, mặc dù đã triển khai nhiều biện pháp quản lý và ngăn chặn thuốc giả, thuốc nhập lậu và thuốc không rõ nguồn gốc nhưng vấn đề này hiện vẫn rất phức tạp. Trong năm 2008, thuốc không đạt chất lượng chiếm tỷ lệ 2,94% so với lượng mẫu lấy kiểm tra trên toàn quốc. Trong đó, tỷ lệ thuốc kháng sinh kém chất lượng cao nhất. Tỷ lệ thuốc đông dược và dược liệu vi phạm chiếm 26,7% với các vi phạm về chỉ tiêu độ ẩm và độ nhiễm khuẩn. Riêng thuốc đông dược phần lớn được sản xuất chưa đạt GMP, phòng kiểm tra chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu nên tỷ lệ vi phạm rất cao: 22/49 mẫu thuốc sản xuất trong nước phải thu hồi. Tính chung trong năm qua, Cục Quản lý dược đã đình chỉ lưu hành và thu hồi 93 lô thuốc. Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động thông tin quảng cáo thuốc, với số lượng hồ sơ đăng ký quảng cáo tăng đến 123% so với năm 2007, thông tin quảng cáo thuốc nước ngoài tăng đến 136% kéo theo tình trạng vi phạm trong lĩnh vực này trở nên trầm trọng.
Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy trong 8 tháng đầu năm 2009, trị giá nhập khẩu thuốc kháng sinh vào Việt Nam đạt mức cao nhất từ trước đến nay 154 triệu USD, tăng 75% so cùng kỳ năm ngoái. Đây là nhóm thuốc có lượng nhập khẩu lớn nhất, chiếm 25% về lượng và 24% về trị giá trong tổng số thuốc được nhập hiện nay.
Với việc sử dụng thuốc kháng sinh tràn lan tại các bệnh viện hiện nay trong khi thuốc kháng sinh sản xuất trong nước cũng vẫn chỉ ở mức hạn chế thì nhóm thuốc kháng sinh ngoại được nhập khẩu ngày càng gia tăng. Dự báo của Tổng cục Hải quan vào các tháng cuối năm trị giá nhập khẩu thuốc kháng sinh sẽ không chững lại mà tiếp tục tăng, ước đạt 20 triệu USD/tháng.
Thị trường cung cấp thuốc kháng sinh vào nước ta ngày càng được mở rộng. Tính đến hết tháng 8-2009, có khoảng 47 thị trường tham gia cung cấp, cùng kỳ năm 2008 chỉ có 38 thị trường. Trong số các thị trường mới này có nước Cộng hòa Dominica có trị giá nhập khẩu tương đối cao trên 600.000 USD, với mặt hàng điển hình là thuốc kháng sinh Zinnat; thị trường Greenland cung cấp mặt hàng Rifampicin; hoặc Iceland cung cấp thuốc Pyrazinamide 500 mg…
Tuy nhiên, thị trường cung cấp nhiều mặt hàng kháng sinh nhất là Ấn Độ, trị giá nhập khẩu từ thị trường này hiện đạt trên 37 triệu USD. Đây là thị trường cung cấp nhiều mặt hàng thuốc kháng sinh generic - thuốc kháng sinh phiên bản với giá thành khá cạnh tranh. Tiếp đến là thị trường Hàn Quốc và Pháp, trị giá đạt lần lượt 19 và 15 triệu USD. Trị giá từ hai thị trường này đạt cao là do có nhiều loại kháng sinh thế hệ mới được nhập với giá thành khá đắt… Như vậy, ngoài việc xuất hiện thêm một số thị trường cung cấp mới thì nhập khẩu từ hầu khắp các thị trường cũ đều tăng khá, do số lượng hàng được nhập nhiều hơn và có thêm các loại thuốc mới. Việc có quá nhiều loại thuốc nhập khẩu vào Việt Nam cũng gây không ít khó khăn cho công tác quản lý. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đa dạng về tên và công dụng của các biệt dược không phải bác sỹ, dược sỹ nào cũng am hiểu rõ ràng, đặc biệt khi kê đơn cho bệnh nhân dẫn đến những phản ứng phụ không đáng có.
Mới đây, ngày 28/4/2010, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 09/2010/TT-BYT quy định các hoạt động về quản lý chất lượng thuốc trong quá trình sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu hành và sử dụng tại Việt Nam; quyền và trách nhiệm của cơ sở kinh doanh thuốc, người tiêu dùng và các tổ chức, cá nhân liên quan đến chất lượng thuốc. Thông tư này bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7, hy vọng với quy định mới thay thế các quy định cũ này, việc quản lý chất lượng các loại thuốc nhập khẩu sẽ có nhiều thay đổi.
Tiền phong
WHO công bố cẩm nang dược phẩm cho trẻ em
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố cẩm nang trình bày cặn kẽ cách sử dụng 240 loại thuốc thiết yếu cho trẻ em từ sơ sinh đến 12 tuổi.
Theo thông cáo báo chí của WHO, đây là lần đầu tiên các bác sĩ có một chuẩn của thế giới để tham khảo khi kê đơn cho các bệnh nhi. Đã có nhiều quốc gia lập ra tiêu chuẩn riêng của mình nhưng chưa từng có một cẩm nang đầy đủ về dược phẩm nhi khoa cho tất cả các nước.
Cẩm nang dày hơn 500 trang của WHO hướng dẫn cặn kẽ về cách dùng, liều lượng, phản ứng phụ và lưu ý về chống chỉ định của 240 loại thuốc được xếp vào loại thiết yếu cho trẻ em. Các loại thuốc này bao gồm từ những loại đơn giản nhất như thuốc trị cảm ho, sổ mũi cho đến các loại giải độc, kháng khuẩn và các thuốc dành cho các bệnh phức tạp. Bác sĩ Hans Hogerzeil, Giám đốc về Dược phẩm thiết yếu và Chính sách ngành dược của WHO, cho biết: “Để sử dụng hiệu quả, các loại thuốc cần được chọn lựa kỹ càng và liều dùng phải điều chỉnh theo độ tuổi, cân nặng và nhu cầu của bệnh nhi. Không có một cẩm nang chung cho thế giới, nhiều bác sĩ và chuyên viên trong ngành đã kê đơn dựa theo những cơ sở thông tin còn rất hạn chế”.
Theo thống kê của WHO, khoảng 8,8 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết hằng năm, rất nhiều trong số đó qua đời vì những bệnh mà nếu được chọn đúng loại thuốc thích hợp có thể chữa khỏi. Tình trạng thiếu thuốc dành cho nhi khoa hiện là vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Tại nhiều nơi trên thế giới, có không ít loại thuốc được kê toa cho bệnh nhi mà không theo hướng dẫn chính thức nào cả, nghĩa là ảnh hưởng của chúng đối với trẻ em chưa từng được nghiên cứu và phê chuẩn.
Vì thuốc được sản xuất riêng cho trẻ em hiện còn rất hạn chế nên các bác sĩ và nhiều phụ huynh thường có thói quen giảm liều lượng dành cho người lớn xuống bằng cách bẻ nhỏ viên thuốc để cho bệnh nhi dùng. Nhưng trẻ em không phải là “người lớn thu nhỏ” nên cơ thể có thể phản ứng khác, dẫn đến việc quá liều, gây nên những tác dụng phụ hoặc chưa đủ liều khiến việc chữa trị thất bại.
Từ năm 2007, nhân kỷ niệm 30 năm ngày WHO lập ra “Danh mục thuốc thiết yếu”, tổ chức này đã mở chiến dịch “Thuốc dành riêng cho trẻ em”, với hy vọng sẽ kêu gọi sự quan tâm của các tổ chức chính trị, các hãng dược phẩm, giới nghiên cứu và công chúng. Cẩm nang hướng dẫn sử dụng thuốc nhi khoa vừa ra mắt cũng là một trong những thành quả của chiến dịch trên.
Dược phẩm lý tưởng cho trẻ em là những loại thuốc phù hợp với độ tuổi, điều kiện sinh lý và trọng lượng của bệnh nhi. Nếu dạng viên, thuốc phải nhỏ để bệnh nhi uống được trọn vẹn hoặc có thể dễ hòa tan hay nghiền nhỏ để trộn vào thực phẩm. Độc giả có thể tham khảo cẩm nang hướng dẫn sử dụng thuốc cho trẻ em (bằng tiếng Anh) theo địa chỉ: http://www.who.int/entity/selection_medicines/list/WMFc_2010.pdf.
Đề nghị góp 300 triệu USD cho các chương trình da cam
Theo thông cáo báo chí của WHO, đây là lần đầu tiên các bác sĩ có một chuẩn của thế giới để tham khảo khi kê đơn cho các bệnh nhi. Đã có nhiều quốc gia lập ra tiêu chuẩn riêng của mình nhưng chưa từng có một cẩm nang đầy đủ về dược phẩm nhi khoa cho tất cả các nước.
Cẩm nang dày hơn 500 trang của WHO hướng dẫn cặn kẽ về cách dùng, liều lượng, phản ứng phụ và lưu ý về chống chỉ định của 240 loại thuốc được xếp vào loại thiết yếu cho trẻ em. Các loại thuốc này bao gồm từ những loại đơn giản nhất như thuốc trị cảm ho, sổ mũi cho đến các loại giải độc, kháng khuẩn và các thuốc dành cho các bệnh phức tạp. Bác sĩ Hans Hogerzeil, Giám đốc về Dược phẩm thiết yếu và Chính sách ngành dược của WHO, cho biết: “Để sử dụng hiệu quả, các loại thuốc cần được chọn lựa kỹ càng và liều dùng phải điều chỉnh theo độ tuổi, cân nặng và nhu cầu của bệnh nhi. Không có một cẩm nang chung cho thế giới, nhiều bác sĩ và chuyên viên trong ngành đã kê đơn dựa theo những cơ sở thông tin còn rất hạn chế”.
Theo thống kê của WHO, khoảng 8,8 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết hằng năm, rất nhiều trong số đó qua đời vì những bệnh mà nếu được chọn đúng loại thuốc thích hợp có thể chữa khỏi. Tình trạng thiếu thuốc dành cho nhi khoa hiện là vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Tại nhiều nơi trên thế giới, có không ít loại thuốc được kê toa cho bệnh nhi mà không theo hướng dẫn chính thức nào cả, nghĩa là ảnh hưởng của chúng đối với trẻ em chưa từng được nghiên cứu và phê chuẩn.
Vì thuốc được sản xuất riêng cho trẻ em hiện còn rất hạn chế nên các bác sĩ và nhiều phụ huynh thường có thói quen giảm liều lượng dành cho người lớn xuống bằng cách bẻ nhỏ viên thuốc để cho bệnh nhi dùng. Nhưng trẻ em không phải là “người lớn thu nhỏ” nên cơ thể có thể phản ứng khác, dẫn đến việc quá liều, gây nên những tác dụng phụ hoặc chưa đủ liều khiến việc chữa trị thất bại.
Từ năm 2007, nhân kỷ niệm 30 năm ngày WHO lập ra “Danh mục thuốc thiết yếu”, tổ chức này đã mở chiến dịch “Thuốc dành riêng cho trẻ em”, với hy vọng sẽ kêu gọi sự quan tâm của các tổ chức chính trị, các hãng dược phẩm, giới nghiên cứu và công chúng. Cẩm nang hướng dẫn sử dụng thuốc nhi khoa vừa ra mắt cũng là một trong những thành quả của chiến dịch trên.
Dược phẩm lý tưởng cho trẻ em là những loại thuốc phù hợp với độ tuổi, điều kiện sinh lý và trọng lượng của bệnh nhi. Nếu dạng viên, thuốc phải nhỏ để bệnh nhi uống được trọn vẹn hoặc có thể dễ hòa tan hay nghiền nhỏ để trộn vào thực phẩm.