Ngày 30/11/2010: Nâng cao năng lực cán bộ y tế tuyến dưới, Cần 5 đến 10 năm các vùng dân tộc mới đạt mức sinh thay thế, Cốc gây ung thư chưa có mặt tại Việt Nam,Gặp người 20 năm có HIV, Thu hồi thuốc không đạt yêu cầu , TP.HCM chuẩn bị để tự lực trong phòng chống HIV/AIDS, Tháng 12 hằng năm là Thánh hành động quốc gia về dân số, Triển khai sàng lọc thính lực bẩm sinh ở trẻ sơ sinh,
Ngày 1/12/2010: Khắc phục dị tật từ bào thai; Hai Công ty Dược nước ngoài xin giảm giá thuốc: Người bệnh cần nhiều hơn thế; 30% các biện pháp tránh thai chỉ áp dụng trên giấy; "Kiểm soát, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh – trách nhiệm của chúng ta" là chủ đề Tháng HĐQG về DS năm 2010.
Nhân dân
Nâng cao năng lực cán bộ y tế tuyến dưới
Ngành y tế đã và đang triển khai nhiều giải pháp mang tính chất giải quyết tình thế cũng như lâu dài trong việc chống quá tải bệnh viện. Thực hiện đề án cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ tuyến trên về hỗ trợ tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh (Ðề án 1816) cũng như phát triển mô hình bệnh viện vệ tinh đã đem lại hiệu quả thiết thực là một trong những nhóm giải pháp đó
Nó vừa giảm tải từ xa cho các bệnh viện tuyến trên, vừa nâng cao năng lực đội ngũ y tế tuyến dưới, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của người dân.
Nổi bật và hiệu quả nhất là triển khai thực hiện Ðề án 1816. Ðến nay, sau hai năm triển khai ba mục tiêu cơ bản của đề án đều đạt được, đó là: Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện tuyến dưới, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa; chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ năng tay nghề, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ y tế tuyến dưới; giảm tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến trên, nhiều kỹ thuật cao đã được chuyển giao thành công cho y tế cơ sở, góp phần giảm tải từ xa cho các bệnh viện tuyến trung ương. Có tới 61/63 tỉnh, thành phố triển khai thực hiện đề án, nhiều kỹ thuật đã có thể thực hiện nhuần nhuyễn ở y tế tuyến dưới, như phẫu thuật cấp cứu chấn thương sọ não, phẫu thuật nội soi bướu lành tiền liệt tuyến, phẫu thuật sỏi ống mật chủ, phẫu thuật nội soi hệ tiết niệu... Việc cử cán bộ y tế luân phiên về bệnh viện tuyến dưới được dư luận xã hội cả nước đánh giá cao, qua đó khẳng định: Ðây là một chủ trương đúng đắn của ngành y tế. Người bác sĩ nhận nhiệm vụ đi luân phiên về tuyến dưới đều ý thức, xác định nhiệm vụ của mình vì khi những kỹ thuật được chuyển giao tới y tế cơ sở sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, để người dân được hưởng sự chăm sóc y tế tốt nhất ngay tại địa phương mình. Và hơn hết cũng là hình thức giảm tải cho chính bệnh viện của bác sĩ đi luân phiên. Qua những thành công đó, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Quốc Triệu khẳng định, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đề án một cách đồng bộ, từ tuyến trung ương về tỉnh; từ tỉnh xuống huyện, tuyến huyện cử bác sĩ về khám, chữa bệnh cho bà con ngay tại xã.
Hiện nay, Bệnh viện Việt Ðức và Bệnh viện Bạch Mai là hai đơn vị đang thực hiện mô hình bệnh viện vệ tinh (BVVT). Từ năm 2005, dự án BVVT của Bệnh viện Việt Ðức đã được triển khai với sáu bệnh viện: Phú Thọ, Việt Tiệp (Hải Phòng), Bắc Ninh, Nam Ðịnh, Thanh Hóa, khu vực Sơn Tây. Ðến nay các mục tiêu chính đề ra: giảm 50% số người bệnh cần điều trị phải chuyển đến Bệnh viện Việt Ðức; giảm 80% trường hợp chết do xử lý ban đầu sai; giảm 80% ca chết do vận chuyển cấp cứu không đúng phương pháp... đã cơ bản đạt được. Cùng với những giải pháp thực hiện ngay tại bệnh viện như tăng thêm phòng khám, kê thêm giường bệnh, cải cách thủ tục hành chính... đến nay, Bệnh viện Việt Ðức không còn hiện tượng nằm ghép, tình trạng quá tải được cải thiện đáng kể. Hệ thống sáu BVVT của Bệnh viện Việt Ðức đã phát huy hiệu quả trong công tác khám, chữa bệnh, nhất là ở chuyên ngành ngoại khoa.
Sau Bệnh viện Việt Ðức, Bệnh viện Bạch Mai cũng đã được Bộ Y tế phê duyệt đề án Bệnh viện vệ tinh giai đoạn 2009-2013. Theo đó, sẽ có tám bệnh viện: Hà Ðông; Bắc Ninh; Phố Nối (Hưng Yên); Tuyên Quang; Lào Cai II; Sơn La; Nam Ðịnh và Nghệ An sẽ làm vệ tinh cho Bạch Mai. Các bệnh viện vệ tinh sẽ được Bệnh viện Bạch Mai hỗ trợ nâng cao năng lực chuyên môn, quản lý cho cán bộ y tế, mở rộng, phát triển các dịch vụ kỹ thuật, tăng cường chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh một cách bền vững, rút ngắn khoảng cách chất lượng dịch vụ y tế giữa trung ương với địa phương, đáp ứng và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người bệnh ngay tại cơ sở, góp phần giảm tải cho Bệnh viện Bạch Mai và các bệnh viện tuyến trên. Thời gian tới, Bộ Y tế sẽ nhân rộng mô hình bệnh viện vệ tinh với Bệnh viện Phụ sản, Nhi.
Theo thống kê của Bộ Y tế, sau ba năm triển khai các giải pháp chống quá tải cho các bệnh viện, số người bệnh phải nằm ghép giảm từ 15 nghìn người (năm 2007) xuống còn hơn sáu nghìn người (năm 2010). Nhiều bệnh viện trong hai năm qua cơ bản không còn tình trạng người bệnh phải nằm ghép, như Bệnh viện Việt Ðức, T.Ư Huế và Thanh Nhàn (Hà Nội), Bệnh viện đa khoa các tỉnh: Lâm Ðồng, Quảng Ninh, Hậu Giang, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lạng Sơn, Ðiện Biên... Tình trạng nằm ghép ở các bệnh viện hiện nay chỉ còn ở các bệnh viện tuyến cuối, đầu ngành, các bệnh viện chuyên khoa như Tim mạch, Ung thư, Nhi... Nếu thực hiện thành công Ðề án 47 (Ðầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010 và Ðề án 930 (Ðầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2013) thì cơ bản sẽ giải quyết được tình trạng nằm ghép ở các bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương.
Tuy nhiên, hệ thống khám, chữa bệnh còn nhiều điểm cần khắc phục nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân. Do đó các bệnh viện cần tiếp tục thực hiện các giải pháp cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp lại quy trình làm việc, quy trình khám, chữa bệnh khoa học và hợp lý nhằm thực hiện tốt 'ba giảm': giảm ngày điều trị trung bình một cách hợp lý, giảm công suất giường bệnh, giảm chi phí điều trị cho người bệnh. Tăng cường điều trị ngoại trú, nhất là đối với những bệnh mạn tính, giảm ngày điều trị nội trú trên cơ sở bảo đảm chất lượng điều trị, rút ngắn thời gian nằm viện không cần thiết, giảm chi phí cho người bệnh. Cải tạo cơ sở hạ tầng, bố trí thêm giường bệnh tại các khoa phòng thường xuyên quá tải, hạn chế tình trạng nằm ghép. Rà soát công tác xã hội hóa trong khám, chữa bệnh tại các đơn vị nhằm chấn chỉnh kịp thời những sai sót, hạn chế thấp nhất mặt trái của cơ chế thị trường đối với công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Cần 5 đến 10 năm các vùng dân tộc mới đạt mức sinh thay thế
Ngày 29/11, tại TP Lào Cai (tỉnh Lào Cai) diễn ra hội thảo về công tác DS - SKSS đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số do Tổng cục Dân số (Bộ Y tế) phối hợp với UBND tỉnh Lào Cai tổ chức.
Theo báo cáo của Tổng cục Dân số, hiện nay nước ta có 20 tỉnh có số dân là người thiểu số chiếm hơn 20% tổng dân số của tỉnh. Những tỉnh này được xem là những tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, chiếm hơn 68% số người thuộc các dân tộc thiểu số toàn quốc. Trong tổng số 20 tỉnh có đông đồng bào thiểu số sinh sống có đến 13 tỉnh (65%) chưa đạt mức sinh thay thế, đặc biệt có đến tám tỉnh mức sinh vẫn còn cao (TFR (tổng tỷ suất sinh thô) >2,5) trong đó đặc biệt có Kon Tum và Hà Giang mức sinh còn rất cao (TFR>3).
Theo Thứ trưởng Y tế Nguyễn Bá Thủy, để đẩy mạnh công tác DS-SKSS, nâng cao chất lượng sống của đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian tới, Tổng cục DS-KHHGÐ sẽ tập trung nỗ lực, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện công tác DS-KHHGÐ, phấn đấu sớm đạt mức sinh thay thế ở các tỉnh có đông đồng bào thiểu số sinh sống. Tăng cường chỉ đạo công tác dân số, hoàn thiện bộ máy, có chính sách ưu tiên đào tạo, duy trì cán bộ phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGÐ. Trong giai đoạn tới, việc củng cố hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ KHHGD, triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ thích hợp được chú trọng. Từng bước khống chế tốc độ gia tăng mất cân bằng, tiến tới ổn định cân bằng giới tính khi sinh; đồng thời đổi mới và cải tiến công tác giảm sinh. Việc đầu tư vật chất và con người ở khu vực đặc thù này phải tăng gấp nhiều lần mới có thể hy vọng trong năm đến 10 năm tới thì các tỉnh có đồng bào thiểu số sinh sống mới đạt được mức sinh thay thế.
Tiền phong
Cốc gây ung thư chưa có mặt tại Việt Nam
Ngày 29/11, đại diện Tổng cục Tiêu chuẩn và Đo lường chất lượng cho biết chưa phát hiện cốc Coca-Cola có nguy cơ gây ung thư tại Việt Nam. Trong khi đó, phía Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm (Bộ Y tế) cho rằng, các loại cốc, đồ da dụng khác không thuộc quản lý của Cục và cơ quan này chỉ phối hợp với Quản lý thị trường kiểm tra khi có yêu cầu. Trước đó, các nhà chức trách Mỹ yêu cầu hãng Coca-Cola thu hồi 88.000 chiếc cốc uống nước xuất xứ từ Trung Quốc mà hãng này bán ra do chứa hàm lượng chì cao gấp 1.000 lần giới hạn cho phép và một số lô cốc khác có chứa cadimi gây độc hại cho sức khỏe. Đây là những chiếc cốc có in họa tiết các nhân vật trong phim hoạt hình nổi tiếng.
Gặp người 20 năm có HIV
Có người tin chắc chị đã chết, có người giật mình khi chị đột ngột xuất hiện khỏe mạnh, những người có HIV tìm thấy ở chị nguồn động lực to lớn.
Những ngày cuối tháng 11/2010, sau 20 năm, chị (*) lần mở lại những trang hồi ức buồn nhưng đầy nghị lực sẻ chia đến cộng đồng.
Phải sống!
20 tuổi, tôi yêu anh, một nghệ sĩ múa. Tôi ở TP.HCM, anh ở một nước châu Âu. Những cánh thư giúp chúng tôi giữ lửa yêu. Năm 1989, sau gần 10 năm yêu nhau, anh về miền Bắc một thời gian, tôi bay từ TP.HCM ra Bắc cùng anh làm lễ ra mắt. Cha mẹ đã mất nên ngày vui của tôi chỉ có vài người thân, bạn bè chứng kiến. Tôi cũng biết trước khi đến với tôi, anh đã có quan hệ với một số phụ nữ khác, nhưng vì rất yêu anh nên tôi cố gắng thông cảm.
Cuối năm 1990, tôi thực hiện các thủ tục xuất cảnh để sum họp cùng anh. Khi xét nghiệm, mẫu máu của tôi có vấn đề, mẫu được chuyển ra nước ngoài để xét nghiệm. Một chiều tháng 12-1990, tôi nhận được tin sét đánh ngang tai: tôi có HIV. Bác sĩ hỏi tôi có quan hệ tình dục với ai không, tôi cho biết chỉ quan hệ với chồng sắp cưới.
Tôi không biết HIV nghĩa là gì, nhưng rất đau đớn khi được biết tôi - lúc ấy vừa ở tuổi 30 - không được phép xuất cảnh và chỉ có thể sống từ 6 tháng đến 12 năm. Báo chí lập tức đăng tin tôi là trường hợp đầu tiên phát hiện có HIV tại VN, tên tôi được viết tắt theo đúng tên thật. Người thân, bạn bè, hàng xóm... đoán ra người ấy là tôi.
Có người kỳ thị, có người cảm thông, có người nghĩ do tôi ăn chơi trụy lạc hay bị người ta hãm hại... Nếu cha mẹ tôi còn sống chắc các cụ không chịu nổi biến cố quá lớn này.
Ý định tự tử từng lấn át tinh thần tôi nhưng khát vọng sống lại bùng lên. Tôi dành thời gian đi chùa, nghe kinh Phật, ăn chay trường tìm chút bình yên trong tâm hồn. Thêm một lý do nữa tôi phải sống đó chính là căn nhà nhiều kỷ niệm ba mẹ để lại. Tôi tự nhủ: “Mình là con một của ba mẹ, người thân còn trên đời thì ở quá xa, mình tự tử thì ai chăm lo căn nhà ấy?”.
Nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng”, hàng xóm nhiều người kỳ thị. Có người còn buông lời cay nghiệt “chống mắt chờ xem cảnh tôi chết rục xương”. Chịu không xiết những điều tiếng, tôi nuốt nước mắt bán căn nhà ấy chuyển sang quận khác sống.
Bốn năm sau ngày nhận tin dữ mình có HIV, lòng dạ tôi tan nát khi hay tin anh mất cũng vì HIV, tro cốt được mang về VN. Dịp 49 ngày của anh, tôi đáp chuyến bay ra miền Bắc, thắp cho anh nén nhang, thắt lòng trách anh nỡ bỏ tôi lại một mình trong bão tố cuộc đời. Sau này tôi vẫn thường gặp anh trong những giấc mơ.
Tôi được theo dõi định kỳ và đến tháng 1/1997 thì bắt đầu uống thuốc điều trị. Thuốc vào tôi bị nóng sốt, muốn ói, ớn lạnh. Không có ai bên cạnh để sẻ chia, tôi vào bệnh viện than với bác sĩ để được nghe vài lời động viên cho ấm lòng. Có những ngày quá mệt, tôi nằm bẹp trên giường, quẩn quanh với suy nghĩ: “Mình không sợ chết nữa! Mình sẵn sàng về với ba mẹ rồi!”.
Sau thời gian mệt mỏi tinh thần vì quá ám ảnh căn bệnh, tôi quyết định thay đổi suy nghĩ: ráng uống thuốc theo chỉ định, quên bệnh đi, tập trung làm ăn, tiếp tục sống vì ít nhất mình vẫn còn đang được sống. Tôi xoay đủ đường buôn bán, thất bại nhiều, thành công không thiếu. Nhờ bận rộn tôi quên phần nào căn bệnh ấy.
Một nụ cười che hết thiên hạ
Vốn tính lạc quan, trong cơn ác mộng chưa dứt mang tên HIV, tôi vẫn gắng chọn thái độ sống vui vẻ, luôn nghĩ một nụ cười có thể che hết thiên hạ dù trong lòng trăm ngàn nỗi niềm.
20 năm một mình, lúc còn trẻ tôi lo làm ăn và khá bận rộn nên không ý thức hết nỗi cô đơn, bây giờ tuổi xế chiều mới thật thấm thía. Nhà mới nổ cầu chì, tôi loay hoay tự thay, đến đâu hay đến đó. Tôi sợ lúc trúng gió không có bàn tay ấm nào chăm lo, sợ một sáng nào đó mình không thức dậy nữa mà chẳng ai hay...
Một vài người chủ động đến với tôi nhưng dường như duyên tình tôi đã cạn. Tôi đều cho họ biết tôi có HIV. Có người rút lui, có người bàng hoàng không tin, có người chấp nhận. Tôi cũng từng mơ ước làm mẹ nhưng ước mơ ấy có lẽ mãi xa tầm tay.
Bây giờ tôi cố gắng buôn bán trang trải qua ngày, công việc ấy cho tôi cơ hội tiếp xúc với nhiều người. Sau hai buổi làm việc sáng chiều, buổi tối là thời gian tôi thư giãn, góp nhặt niềm vui từ những cuộc trò chuyện, đi ăn với bạn bè, đi chùa lễ Phật... Ấm lòng nhất là những người biết tôi có HIV vẫn chơi với tôi.
Câu chuyện sống được 20 năm của tôi được nhiều bác sĩ lấy làm ví dụ động viên những người nhiễm HIV khác. Nhiều lần ngồi chờ khám, tôi nghe các bệnh nhân nhắc đến chuyện người có HIV vẫn sống được 20 năm, tôi không ngại nhận rằng đó chính là tôi và động viên họ lạc quan, điều trị theo đúng chỉ định của bác sĩ. Tôi từng động viên một phụ nữ định tự tử khi bị chồng ruồng bỏ là còn sống ngày nào thì phải ráng sống, ráng làm việc, mạnh dạn gặp gỡ mọi người để có thêm động lực sống.
Tôi tự hào về bản thân trong 20 năm qua khi tự xoay xở, buông cái này bắt cái nọ, không chỉ trong việc mưu sinh mà còn trong cả cuộc chiến với HIV. Buông nỗi ám ảnh để bắt lấy niềm lạc quan, buông mặc cảm để bắt lấy những yêu thương còn đâu đó quanh mình.
Có lẽ, cuộc đời vẫn ưu ái tôi lắm khi cho tôi ý chí, sự lạc quan và một tâm hồn thích nghĩ đến những điều thiện. Vậy sao không ráng thương đời!
Ông Eamonn Murphy (giám đốc Chương trình phối hợp của Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS - UNAIDS Việt Nam): Phụ nữ có nguy cơ lây nhiễm HIV cần hiểu biết về quyền của mình
Các chuẩn mực về giới và tình dục là rào cản chính khiến phụ nữ khó có thể thực hành tình dục an toàn để dự phòng HIV. Để có thể trao quyền cho họ và giúp họ bảo vệ bản thân không bị lây nhiễm, các nhà hoạch định chính sách, quản lý chương trình và cung cấp dịch vụ không thể chỉ hướng đến phụ nữ. Các dịch vụ nhạy cảm giới cần có sẵn và khuyến khích nam - nữ thảo luận về các vấn đề tình dục. Cần xóa bỏ bạo lực giới, đặc biệt là cưỡng ép và bạo lực tình dục trong quan hệ hôn nhân và ngoài hôn nhân.
Những phụ nữ bị bạo hành và có nguy cơ lây nhiễm HIV có thể tìm đến các trung tâm, dịch vụ trợ giúp pháp lý về y tế và HIV để được tư vấn về bảo vệ quyền của mình. UNAIDS đã hợp tác với Cục Phòng chống HIV/AIDS xuất bản bộ thẻ “Hãy hiểu biết về quyền của bạn” để mọi người dễ dàng tìm hiểu và nhớ những quyền cơ bản về HIV được quy định trong Luật phòng chống HIV/AIDS.
Bác sĩ Võ Minh Quang (phó trưởng phòng kế hoạch tổng hợp - Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM, một trong các bác sĩ tham gia điều trị cho bệnh nhân đầu tiên được phát hiện nhiễm HIV ở VN): Hoàn toàn có hi vọng kéo dài thời gian sống
Bệnh nhân phát hiện nhiễm HIV từ tháng 12/1990, được theo dõi định kỳ và đến tháng 1/1997 (sau gần bảy năm) tình trạng miễn dịch bệnh nhân suy giảm và được chỉ định dùng ARV (thuốc được cung cấp từ chương trình quốc gia). Sau hai năm điều trị số lượng tế bào CD4 tăng lên đáng kể; từ 145 (năm 1998) lên 638 (năm 1999), tải lượng HIV trong máu chỉ còn 322 copies/ml.
Đến tháng 7/2005, số lượng tế bào CD4 của bệnh nhân giảm (chỉ còn 157), lâm sàng có biểu hiện nhiễm trùng cơ hội như nhiễm nấm. Bệnh nhân được tham gia Dự án Quỹ toàn cầu và điều trị tiếp tục ARV bằng phác đồ phối hợp ba loại thuốc tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện Bệnh nhiệt đới. Qua theo dõi diễn tiến của bệnh cho thấy bệnh nhân đáp ứng tốt với điều trị ARV, số lượng tế bào CD4 tăng lại và tải lượng HIV thực hiện tại thời điểm tháng 1/2007 cho kết quả dưới ngưỡng phát hiện.
Thời điểm kiểm tra gần đây nhất (tháng 6/2010) lâm sàng bệnh nhân vẫn ổn định, không có biểu hiện của nhiễm trùng cơ hội, số lượng tế bào CD4 về mức bình thường (620) và tải lượng HIV trong máu vẫn dưới ngưỡng phát hiện. Tuy điều trị ARV trong thời gian dài nhưng đến nay chưa thấy tác dụng phụ của thuốc như thiếu máu, viêm gan, suy thận, tiểu đường.
Hai Công ty Dược nước ngoài xin giảm giá thuốc: Người bệnh cần nhiều hơn thế
Trong lúc giá các loại thuốc nội ngoại đều nhảy múa thì mới đây hai công ty dược nước ngoài xin giảm giá 5-12% với khoảng 18 mặt hàng. Đây có phải là tín hiệu đáng mừng trong thời buổi giá nguyên liệu tăng, tỷ giá biến động?
Giảm giá thuốc độc quyền
Một tuần sau khi Cục Quản lý Dược có văn bản đề nghị các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam hợp tác với Bộ Y tế giảm giá bán đối với một số loại thuốc đến hết năm 2010, Công ty Ebewe Pharma của Áo và Công ty dược Les Laboratoires Servier của Pháp đã cam kết giảm giá 18 mặt hàng thuốc tại Việt Nam.
Theo TS Trương Quốc Cường- Cục trưởng Cục Quản lý Dược, Công ty Ebewe Pharma có thông báo cho biết sẽ giảm giá 16/31 sản phẩm là các loại thuốc trị ung thư với mức giảm 5-12%. Hai loại thuốc kinh doanh tại Việt Nam của Công ty Servier là thuốc điều trị đái tháo đường Diamicron 80mg giảm ở mức 7% và thuốc trị đau thắt ngực Vastarel 20mg cũng giảm ở mức 10%.
Đại diện Hãng dược GSK tại Việt Nam cũng đã có văn bản cam kết giữ giá bán toàn bộ các mặt hàng công ty đang kinh doanh tại Việt Nam từ nay đến cuối năm, và xem xét giảm giá một số thuốc kháng sinh. Cục Quản lý Dược còn cho biết, dự kiến sẽ có thêm một số doanh nghiệp dược giảm giá thuốc ngoại trong dịp này.
Tuy nhiên, các chuyên gia y tế cho rằng, đây là những loại thuốc đặc trị đang trong thời hạn độc quyền nên giá giảm vẫn không ảnh hưởng đến lợi ích của nhà sản xuất. Bởi thuốc này độc quyền, giá luôn được kê khai cao từ trước. Chúng tôi nhiều lần liên lạc với hai nhà sản xuất nói trên và các công ty phân phối các sản phẩm giảm giá này để hỏi về việc giá thuốc được kê khai cao, nhưng đều không nhận được trả lời.
Song rất nhiều ý kiến của chuyên gia trong lĩnh vực dược cho rằng, việc giảm giá trong thời buổi tỷ giá tăng một phần do các công ty cắt giảm chi phí và giảm giá theo chiến lược kinh doanh của mỗi đơn vị. "Dù gì thì nỗ lực giảm giá thuốc ngoại nhập hiện nay, đặc biệt là những thuốc đặc trị là điều đáng mừng. Tuy nhiên việc giảm giá cần thực hiện đều ở các công ty chứ một vài công ty giảm giá một vài mặt hàng thì vẫn không ăn thua"- một lãnh đạo Sở Y tế TPHCM nói.
Người bệnh cần nhiều hơn nữa
Bệnh nhân Lê Thị Chi, 38 tuổi ngụ ở quận 7 cho biết, đối với các loại thuốc ho, thuốc cảm thông thường giá giảm 100-300 đồng/viên là tôi mừng lắm rồi. Còn các loại thuốc đặc trị như thuốc hỗ trợ chữa ung thư, gan mật giảm đến 12% là điều mong ước của người bệnh.
"Một khi đã mang căn bệnh ung thư, mỗi lần chữa bệnh bệnh nhân phải trả cả chục triệu đồng, chỉ cần giảm 5-10% là nhiều rồi. Số tiền giảm ấy, bệnh nhân có thể thuê trọ được mấy ngày ở TP chữa bệnh, nuôi sống được mấy ngày"- chị Chi nói.
Trong khi đó, anh Phan Trọng Hoàng- chủ hai nhà thuốc lớn ở quận Bình Thạnh cho biết, đến thời điểm hiện tại vẫn chưa nhận được thông tin chính thức giá các loại thuốc của Công ty Ebewe Pharma của Áo và Công ty Servier của Pháp giảm.
"Thực tế nếu có giảm giá thì trình dược viên sẽ đưa thông báo cho chúng tôi. Nhà thuốc sẽ xem để khi lấy hàng kịp thời điều chỉnh giá để bán cho người bệnh"- anh Hoàng nói.
Giám đốc Công ty Dược Trường Đức ở khu chợ dược quận 10 nói với PV Tiền Phong rằng, trước khi lấy các thuốc này qua nhà phân phối, công ty dược của ông đã thống nhất bán hàng theo hóa đơn. Vì vậy, việc những mặt hàng của Công ty Ebewe Pharma của Áo và Công ty Servier của Pháp có giảm giá thì không ảnh hưởng đến việc bán thuốc của ông cho nhà thuốc.
Tuy nhiên, theo dược sĩ này, rất ít khi các loại thuốc nhập khẩu giảm giá, chủ yếu là tăng. "Việc giảm giá rất tốt nhưng theo tôi, để người bệnh được nhờ rất cần nhiều thuốc nhập khẩu, giá cao khác giảm giá"- người này đề xuất.
Sở Y tế TPHCM 3 tháng trở lại đây cũng tiếp nhận hàng loạt hồ sơ xin tăng giá thuốc, chỉ có Công ty Dược Đông Nam và Công ty Dược Sài Gòn đăng ký giảm giá khoảng 10 mặt hàng. Trong khi đó, tại Cục Quản lý Dược, hồ sơ xin giảm giá thuốc rất hiếm hoi, trong khi có rất nhiều hồ sơ tăng giá các mặt hàng.
Tuổi trẻ
Thu hồi thuốc không đạt yêu cầu
Cục Quản lý dược vừa có quyết định đình chỉ lưu hành lô thuốc Calci Gluconate ký hiệu BT 109025, hạn dùng 13/10/2012, số đăng ký lưu hành VN-0780-06, do Công ty Brawn Laboratories Limited (Ấn Độ) sản xuất, Công ty Dược phẩm T.Ư 2 nhập khẩu, do không đạt chỉ tiêu hàm lượng chất. Cục Quản lý dược cũng yêu cầu Công ty Dược phẩm T.Ư 2 phối hợp với nhà phân phối khẩn trương thu hồi lô thuốc bị đình chỉ lưu hành.
Khắc phục dị tật từ bào thai
Những phẫu thuật can thiệp trước sinh đã được GS Toshio Chiba, Trung tâm quốc gia về phát triển và sức khỏe trẻ em, Nhật Bản, trình bày tại hội nghị phẫu thuật nội soi châu Á - Thái Bình Dương (diễn ra từ ngày 25 đến 27/11 tại Hà Nội).
Bên lề hội nghị, ông Chiba nói với Tuổi Trẻ:
- Những cải tiến trong chẩn đoán trước sinh, đặc biệt với việc sử dụng rộng rãi siêu âm làm tăng khả năng chẩn đoán dị tật. Mặc dù việc chỉnh sửa phần lớn dị tật tốt nhất vẫn bằng các phương pháp phẫu thuật, điều trị thích hợp sau khi sinh, tuy nhiên một số trường hợp vẫn cần tiến hành can thiệp trước sinh vì tình hình được cải thiện đáng kể.
Can thiệp khắc phục dị tật thai nhi bắt đầu phát triển tại Mỹ cách đây 20 năm. Khoảng 10 năm trước kỹ thuật này bắt đầu xuất hiện ở châu Âu và Nhật Bản, với hai lĩnh vực can thiệp: vào thai nhi dị tật hoặc nhau thai các thai nhi dị tật. Trong đó, Mỹ và châu Âu can thiệp vào thai nhi, Nhật Bản chú trọng can thiệp nhau thai. Tại Nhật Bản, chúng tôi đã phát triển thiết bị chuyên dụng sử dụng trong kỹ thuật đặc biệt này.
* Những dị tật nào có thể can thiệp điều trị từ giai đoạn thai nhi, thưa ông?
- Chủ yếu là khiếm khuyết ở cơ hoành. Khi trẻ em có khiếm khuyết ở cơ hoành, ví dụ như thoát vị cơ hoành, các cơ quan nội tạng ở ổ bụng có thể trào hết lên phần ngực, chèn ép vào phổi khiến thai nhi gặp khó khăn về hô hấp. Một số dị tật tim mạch cũng có thể can thiệp từ giai đoạn bào thai, nhưng kỹ thuật này chỉ có thể tiến hành tại ĐH Harvard, Hoa Kỳ.
* Những nguy hiểm nào có thể xảy ra trong việc can thiệp, khắc phục dị tật từ giai đoạn thai nhi? Vì sao cần can thiệp sớm mà không đợi khi bé sinh ra, can thiệp điều trị sẽ thuận lợi và an toàn hơn, thưa ông?
- Việc chỉnh sửa trước sinh cho vài dị tật bẩm sinh là do các kỹ thuật phẫu thuật được cải tiến bao gồm cả gây mê, quản lý sản khoa và áp dụng các thiết bị chuyên dụng mới. Những nguy hiểm có thể xảy ra là thương tổn các vùng lân cận khu vực được can thiệp.
Nhưng càng ngày với kỹ thuật càng phát triển và năng lực cũng như tay nghề của phẫu thuật viên, nguy cơ này giảm nhiều. Có những loại dị tật cần thiết phải can thiệp ngay khi bé mới sinh được hai ngày tuổi, nhưng có những loại cần phải can thiệp sớm để tránh nguy cơ ảnh hưởng đến thai nhi hoặc khả năng đình chỉ thai nghén. Lựa chọn này phụ thuộc chẩn đoán của bác sĩ.
* Qua theo dõi những trường hợp điều trị bằng kỹ thuật này, ông thấy sức khỏe của em bé sau khi ra đời có gì ảnh hưởng?
- Ở Nhật đã có 16 trường hợp được điều trị, can thiệp khắc phục dị tật từ giai đoạn bào thai. Chúng tôi cũng theo dõi và thấy em bé ra đời chưa gặp ảnh hưởng gì về sức khỏe, tương tự với các báo cáo ở châu Âu.
* Tại cuộc họp báo trước hội nghị phẫu thuật nội soi châu Á - Thái Bình Dương, giới y khoa VN mong muốn được chuyển giao các kỹ thuật mới phục vụ điều trị, trong đó có kỹ thuật này. Ông đánh giá khả năng áp dụng kỹ thuật đặc biệt khó khăn này ở VN như thế nào?
- Kỹ thuật này hoàn toàn có thể thực hiện ở VN trong điều kiện có phẫu thuật viên kinh nghiệm, có đủ thiết bị, với trường hợp trẻ em có bệnh lý phù hợp. Nếu phía VN đề nghị, tôi rất sẵn lòng hỗ trợ các bạn tiếp cận và thực hiện kỹ thuật.
Lao động
TP.HCM chuẩn bị để tự lực trong phòng chống HIV/AIDS
Sau 20 năm nỗ lực phòng, chống HIV/AIDS, đến tháng 9.2010 TPHCM có 5.670 người nhiễm HIV/AIDS, trong đó 410 người đã tử vong. Số lượng này giảm so với đỉnh điểm năm 2007 là 16.667 người, với 686 người tử vong.
20 năm để thay đổi nhận thức về AIDS
Phát biểu tại Hội nghị “20 năm phòng, chống HIV/AIDS (1990 - 2010)”, ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch UBND TP, nguyên là chủ tịch uỷ ban phòng, chống AIDS lâu nhất qua các thời kỳ - khẳng định: “Trong 20 năm qua, thành quả lớn mà công tác phòng, chống AIDS đạt được đó chính là nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo, đưa nhiệm vụ phòng, chống HIV/AIDS lên thành một nhiệm vụ quan trọng và xoá được sự kỳ thị đối với người có HIV trong bộ phận công dân”.
Công tác phòng, chống AIDS của TPHCM bước đầu gặp phải sự phản đối của khá nhiều cấp lãnh đạo với bộ máy của Uỷ ban Phòng, chống AIDS TPHCM, tuy nhiên, ông Nguyễn Thành Tài cho rằng: “Hợp pháp lớn nhất đó chính là hợp lòng dân, chúng tôi đi bằng những con đường và cách thức khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là mang lại kết quả tốt nhất cho người dân, tiêu biểu là chương trình “3 trong 1” của Uỷ ban Phòng, chống AIDS TPHCM”. TPHCM với mức phát triển kinh tế, xã hội hiện nay và sự du nhập ồ ạt của người tỉnh khác, nhưng TP đã bước đầu kiểm soát và hạn chế được mức độ lây nhiễm HIV trong cộng đồng. Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu, Phó Chủ tịch Uỷ ban Phòng, chống AIDS Quốc gia, đánh giá cao việc TP đã thành công bước đầu trong điều trị ARV, sự quyết tâm cao của lãnh đạo TP trong phòng, chống AIDS và công tác giáo dục đồng đẳng...
Tính đến tháng 6/2010, tỉ lệ thai phụ nhiễm HIV được điều trị ARV dự phòng là 92%. Một bà mẹ có HIV mang thai được điều trị ARV, hiện đang là nhân viên chăm sóc tại nhà, chia sẻ: “HIV không có nghĩa là chết. Ta cứ nghĩ đó là một căn bệnh mà ta phải uống thuốc suốt đời và tôi vẫn may mắn hơn những người mắc bệnh ung thư... Tôi vẫn sống, làm việc và có thể sinh con”.
Phải tự lực cánh sinh trong những năm tới
Phòng, chống HIV/AIDS là một công việc khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự liên kết của cả cộng đồng. Ông Nguyễn Quốc Triệu cũng khẳng định: “Giáo dục, phòng, chống AIDS phải lấy đơn vị xã, phường, thôn, tổ dân phố làm mặt trận trọng tâm và người dân là lực lượng nòng cốt”.
Mặc dù tỉ lệ người nhiễm HIV được phát hiện có giảm so với những năm trước, nhưng vẫn còn ở mức cao từ 4.000 - 5.000 người/năm. Trong khi đó, chính sách đãi ngộ, đào tạo nguồn nhân lực phòng, chống AIDS, cơ sở vật chất chưa được Nhà nước đầu tư đúng mức, các chương trình được nhận sự giúp đỡ từ các tổ chức quốc tế là chủ yếu. Ông Eamonn Murphy - Giám đốc quốc gia UNAIDS Việt Nam, cho rằng: VN cần chuẩn bị để tự lực trong công tác phòng, chống AIDS ở những năm tới. Ông Nguyễn Thành Tài cũng khẳng định: “Chúng ta phải tự gánh lấy trách nhiệm phòng, chống AIDS. Cần đầu tư đúng mức cho khoa học, kỹ thuật, nhân lực... mà bấy lâu ta nhận được sự hỗ trợ từ nước ngoài. Số người nhiễm HIV tại TPHCM chiếm 25% số người nhiễm HIV trong cả nước, nếu không chịu đổi mới phương pháp, cách thức thì con số này sẽ tăng lên là 50% trong những năm tới”.
Xã hội hoá các hoạt động phòng, chống HIV là một hướng đi cần thiết. Trong báo cáo tổng kết “20 năm phòng, chống HIV/AIDS”, TS. BS Lê Trường Giang, Phó Chủ tịch thường trực UB Phòng, chống AIDS TPHCM - có kiến nghị với Chính phủ và Bộ Y tế về việc tăng cường nguồn nhân lực, chính sách, nâng cấp chương trình phòng, chống AIDS... với định hướng chiến lược của kế hoạch 5 năm tới (2011 - 2015) là: “Chất lượng và bền vững”.
30% các biện pháp tránh thai chỉ áp dụng trên giấy
Theo các số liệu báo cáo, tỉ lệ người dân trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai (BPTT) ở các tỉnh miền núi đều tăng và nay đang ở con số 80 – 90%. Đáng lẽ khi người dân đã tránh thai triệt để như vậy, số trẻ sinh ra cũng như số con thứ ba, tỉ lệ nạo phá thai phải dần giảm đi; nhưng trên thực tế lại ngược lại.
Khác biệt lớn giữa báo cáo và thực tế
Tại Hội thảo chuyên đề công tác dân số, sức khỏe sinh sản đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra tại Lào Cai ngày 29 – 30.11, nhiều nhà nghiên cứu và quản lý DS đã trao đổi rất thẳng thắn về nghịch lý này. Ông Trần Xuân Giong – PGĐ Trung tâm DS – KHHGĐ huyện Si Ma Cai, Lào Cai - cho biết: Theo số liệu được báo cáo tổng hợp từ tuyến xã gửi lên, người dân trong tuổi sinh đẻ áp dụng BPTT đạt được 75 – 80%. Tổng tỉ suất sinh thô - tức là số con trung bình của một phụ nữ ở Si Ma Cai - cũng khoảng 2,7%. Theo quy luật, nếu tỉ lệ áp dụng BPTT đạt 71% thì địa phương đó sẽ đạt được mức sinh thay thế, tức là 2 con/phụ nữ. Mâu thuẫn này được lý giải khi nhìn vào con số thực tế chỉ đạt được 50 – 55% số người dân độ tuổi sinh đẻ áp dụng BPTT. Tương tự, số con thứ ba được báo cáo là 25,1%, nhưng thực tế còn cao hơn
Theo ông Giong, loại trừ sai số cho phép, sở dĩ con số thực và báo cáo vênh nhau như vậy, một phần là do những người làm công tác thống kê chưa chính xác. Đặc thù của chị em phụ nữ miền núi là nhiều người không thích đặt vòng tránh thai vì khi leo núi, họ có thể bị đau bụng, rong huyết. Vì thế, sau một thời gian, họ muốn thay đổi BPTT. Một phụ nữ thay đổi từ đặt vòng sang tiêm/cấy thuốc chẳng hạn, có thể được tính là 2 ca áp dụng BPTT. Một phụ nữ trên 49 tuổi - tức là bước qua độ tuổi sinh đẻ, nhưng vẫn có tên trong danh sách đang áp dụng BPTT. Tại cuộc khảo sát ở xã Sử Pán, có những chị vẫn có tên trong danh sách đặt vòng, nhưng đối chiếu sổ quản lý theo hộ gia đình thì lại không có tên.
Tương tự như vậy, ở Sơn La, ông Sa Văn Khuyên - Chi cục trưởng Chi cục Dân số - cũng cho biết, đã kiến nghị rất nhiều lần về vấn đề thống kê báo cáo còn chưa chính xác này. Đây không chỉ là sai số mà nếu không có số liệu thật, sẽ không đánh giá đúng thực chất, đưa ra các chỉ tiêu hằng năm ảo, đầu tư không thích đáng. Ví dụ như tỉ suất sinh thô ở Sơn La theo thống kê là 18,9%, nhưng theo tổng điều tra DS lên tới 22,7 – 23,6%. Sơn La có 206 cán bộ y tế thôn bản, nhưng trong đó chỉ có 61 người là những người làm lâu năm, giàu kinh nghiệm; còn lại đều là những người mới. Ngoài hạn chế về trình độ của cán bộ DS ở cơ sở, còn có lý do đãi ngộ quá thấp, người được tuyển dụng họ chỉ có lương cơ bản, người hợp đồng được lương tối thiểu, cộng tác viên được trả 100 nghìn đồng/tháng. Không ít trường hợp, chỉ một ca tháo vòng tránh thai cũ, đặt vòng mới, họ có thể ghi là 2 ca để hưởng thù lao.
Nâng đãi ngộ cho cán bộ cơ sở, bao giờ mới xứng đáng?
GS - TS Nguyễn Đình Cử - Viện trưởng Viện Dân số và các Vấn đề xã hội (Trường Đại học Kinh tế quốc dân) cũng đặt ra câu hỏi về tính chính xác của các số liệu thống kê. 10 tỉnh có mức sinh cao nhất, từ 2,55 – 3,45% đều rơi vào các tỉnh miền núi phía bắc và miền Trung - Tây Nguyên. Những tỉnh này đều có tỉ lệ BPTT đạt trên 70%. Hay lấy ví dụ, Quảng Trị có tỉ lệ BPTT đạt 81,58% thì đáng lẽ phải mức sinh là 1,44; nhưng được báo cáo lên tới 2,85.
Theo ông Nguyễn Trần Lâm - Tổ chức UNESCO - các chính sách dân số đều phải dựa trên các bằng chứng cụ thể, trên các nghiên cứu định tính và những ý kiến phỏng vấn người dân để làm sáng tỏ các số liệu. Nếu không, các chính sách và việc thực thi sẽ bị chệch hướng hoặc đi theo đường mòn, mang tính phong trào.
TS Dương Quốc Trọng - Tổng cục trưởng Tổng Cục DS – KHHGĐ - cũng thừa nhận có những số liệu thống kê chưa chính xác; bởi ông cũng đã gặp trường hợp người vợ là cán bộ dân số, chị không biết chữ nhưng lại biết vận động người dân rất tốt. Vì thế, số liệu thống kê đều do người chồng biết chữ làm giúp.
Trên góc độ nào đó, các số liệu này, dù có sai số cũng vẫn có thể định hướng cho người quản lý về xu hướng tăng hay giảm của các biện pháp tránh thai. Hiện tại, trên toàn quốc có khoảng 160.000 cộng tác viên dân số, chi phí phụ cấp, thù lao cho họ mỗi tháng đã lên tới 8 tỉ đồng, mỗi năm là 100 tỉ đồng - chiếm 1/7 ngân sách dành cho công tác dân số. Tới đây, Tổng cục DS - KHHGĐ sẽ đề đạt ý kiến với QH và Chính phủ về việc tăng mức thù lao này để động viên và khuyến khích họ làm việc hiệu quả, nhiệt tình hơn nữa.
Theo ông Giong, loại trừ sai số cho phép, sở dĩ con số thực và báo cáo vênh nhau như vậy, một phần là do những người làm công tác thống kê chưa chính xác. Đặc thù của chị em phụ nữ miền núi là nhiều người không thích đặt vòng tránh thai vì khi leo núi, họ có thể bị đau bụng, rong huyết. Vì thế, sau một thời gian, họ muốn thay đổi BPTT. Một phụ nữ thay đổi từ đặt vòng sang tiêm/cấy thuốc chẳng hạn, có thể được tính là 2 ca áp dụng BPTT. Một phụ nữ trên 49 tuổi - tức là bước qua độ tuổi sinh đẻ, nhưng vẫn có tên trong danh sách đang áp dụng BPTT. Tại cuộc khảo sát ở xã Sử Pán, có những chị vẫn có tên trong danh sách đặt vòng, nhưng đối chiếu sổ quản lý theo hộ gia đình thì lại không có tên.
Tương tự như vậy, ở Sơn La, ông Sa Văn Khuyên - Chi cục trưởng Chi cục Dân số - cũng cho biết, đã kiến nghị rất nhiều lần về vấn đề thống kê báo cáo còn chưa chính xác này. Đây không chỉ là sai số mà nếu không có số liệu thật, sẽ không đánh giá đúng thực chất, đưa ra các chỉ tiêu hằng năm ảo, đầu tư không thích đáng. Ví dụ như tỉ suất sinh thô ở Sơn La theo thống kê là 18,9%, nhưng theo tổng điều tra DS lên tới 22,7 – 23,6%. Sơn La có 206 cán bộ y tế thôn bản, nhưng trong đó chỉ có 61 người là những người làm lâu năm, giàu kinh nghiệm; còn lại đều là những người mới. Ngoài hạn chế về trình độ của cán bộ DS ở cơ sở, còn có lý do đãi ngộ quá thấp, người được tuyển dụng họ chỉ có lương cơ bản, người hợp đồng được lương tối thiểu, cộng tác viên được trả 100 nghìn đồng/tháng. Không ít trường hợp, chỉ một ca tháo vòng tránh thai cũ, đặt vòng mới, họ có thể ghi là 2 ca để hưởng thù lao.
Nâng đãi ngộ cho cán bộ cơ sở, bao giờ mới xứng đáng?
GS - TS Nguyễn Đình Cử - Viện trưởng Viện Dân số và các Vấn đề xã hội (Trường Đại học Kinh tế quốc dân) cũng đặt ra câu hỏi về tính chính xác của các số liệu thống kê. 10 tỉnh có mức sinh cao nhất, từ 2,55 – 3,45% đều rơi vào các tỉnh miền núi phía bắc và miền Trung - Tây Nguyên. Những tỉnh này đều có tỉ lệ BPTT đạt trên 70%. Hay lấy ví dụ, Quảng Trị có tỉ lệ BPTT đạt 81,58% thì đáng lẽ phải mức sinh là 1,44; nhưng được báo cáo lên tới 2,85.
Theo ông Nguyễn Trần Lâm - Tổ chức UNESCO - các chính sách dân số đều phải dựa trên các bằng chứng cụ thể, trên các nghiên cứu định tính và những ý kiến phỏng vấn người dân để làm sáng tỏ các số liệu. Nếu không, các chính sách và việc thực thi sẽ bị chệch hướng hoặc đi theo đường mòn, mang tính phong trào.
TS Dương Quốc Trọng - Tổng cục trưởng Tổng Cục DS – KHHGĐ - cũng thừa nhận có những số liệu thống kê chưa chính xác; bởi ông cũng đã gặp trường hợp người vợ là cán bộ dân số, chị không biết chữ nhưng lại biết vận động người dân rất tốt. Vì thế, số liệu thống kê đều do người chồng biết chữ làm giúp.
Trên góc độ nào đó, các số liệu này, dù có sai số cũng vẫn có thể định hướng cho người quản lý về xu hướng tăng hay giảm của các biện pháp tránh thai. Hiện tại, trên toàn quốc có khoảng 160.000 cộng tác viên dân số, chi phí phụ cấp, thù lao cho họ mỗi tháng đã lên tới 8 tỉ đồng, mỗi năm là 100 tỉ đồng - chiếm 1/7 ngân sách dành cho công tác dân số. Tới đây, Tổng cục DS - KHHGĐ sẽ đề đạt ý kiến với QH và Chính phủ về việc tăng mức thù lao này để động viên và khuyến khích họ làm việc hiệu quả, nhiệt tình hơn nữa.
Sức khỏe & đời sống
Tháng 12 hằng năm là Thánh hành động quốc gia về dân số
Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định lấy tháng 12 hàng năm là "Tháng hành động quốc gia về Dân số". Việc tổ chức Tháng hành động quốc gia về Dân số hàng năm nhằm nâng cao nhận thức và đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, từng gia đình và toàn xã hội về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đối với sức khỏe, hạnh phúc của mỗi người dân, mỗi gia đình, đối với sự phát triển bền vững của đất nước, dân tộc Việt Nam. Đây cũng là dịp để tăng cường sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân và sự hợp tác, giúp đỡ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của Việt Nam.
Triển khai sàng lọc thính lực bẩm sinh ở trẻ sơ sinh
BV Phụ sản Hà Nội là cơ sở đầu tiên tại Việt Nam thử nghiệm sàng lọc mất thính lực bẩm sinh ở trẻ sơ sinh. Mất thính lực cần được xác định và điều trị nếu có thể trước khi trẻ được 6 tháng tuổi. Những trẻ được phát hiện muộn có thể phải gánh chịu những khuyết tật vĩnh viễn, không thể sửa chữa được về khả năng phát âm, phát triển ngôn ngữ và nhận thức so với các trẻ bình thường. Chương trình sàng lọc mất thính lực cho trẻ sơ sinh được thiết kế để xác định mất thính lực cho trẻ sớm ngay sau khi đẻ, thông thường là trước khi ra viện về nhà.
Gia đình & Xãhội
"Kiểm soát, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh – trách nhiệm của chúng ta" là chủ đề Tháng HĐQG về DS năm 2010.
Tham dự Lễ hưởng ứng Tháng Hành động Quốc gia về Dân số các tỉnh khu vực miền núi năm 2010 có TS Dương Quốc Trọng – Tổng cục trưởng Tổng cục DS - Kế hoạch hóa gia đình, bà Bùi Thị Kim Dung – Phó Chủ tịch UBND, Trưởng ban Chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ tỉnh Lào Cai, lãnh đạo các vụ, đơn vị Bộ Y tế, Tổng cục DS-KHHGĐ, đại diện Chi cục DS-KHHGĐ 22 tỉnh miền núi, đại diện các bộ, ngành liên quan, các tổ chức quốc tế và phóng viên các báo đài Trung ương, địa phương. Dự Lễ hưởng ứng còn có hơn 500 người dân và học sinh TP Lào Cai.
Phát biểu tại buổi lễ TS Dương Quốc Trọng cho biết, buổi lễ được tổ chức tại Lào Cai là hoạt động mở đầu của một chuỗi hoạt động trong Tháng Hành động (từ 1 – 31/12). Trong quyết định số 2161/QĐ-TTg ngày 26/11/2010, Thủ tướng đã quyết định lấy tháng 12 hằng năm là Tháng Hành động Quốc gia về Dân số với mục tiêu chính: nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, các đoàn thể, tổ chức xã hội… trong việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ đối với sức khỏe, hạnh phúc của mỗi người dân, gia đình…
Phát biểu tại buổi lễ bà Bùi Thị Kim Dung – Phó Chủ tịch UBND, Trưởng ban chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ tỉnh Lào Cai - thay mặt tỉnh Lào Cai, cũng như các tỉnh miền núi nhiệt liệt hưởng ứng nhằm thực hiện 3 nhóm mục tiêu và 4 nhóm hành động mà Chính phủ đã nêu; hưởng ứng và thống nhất chủ đề Tháng Hành động Quốc gia về Dân số năm 2010: “Kiểm soát và giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh – trách nhiệm của chúng ta”.
Giadinh.net.vn xin trích đăng bài phát biểu của TS Dương Quốc Trọng – Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ tại buổi lễ hưởng ứng Tháng Hành động Quốc gia về Dân số các tỉnh khu vực miền núi.
Kính thưa các quý vị đại biểu!
Hôm nay được sự ủy quyền của lãnh đạo Bộ Y tế, thay mặt lãnh đạo Tổng cục DS-KHHGĐ, chúng tôi phối hợp với UBND tỉnh Lào Cai tổ chức lễ hưởng ứng Tháng Hành động Quốc gia về Dân số năm 2010. Có thể nói đây là hoạt động đầu tiên trong chuỗi các hoạt động để hưởng ứng Tháng Hành động Quốc gia về Dân số năm nay. Đây cũng là tin rất mới đối với chúng ta, Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 6121/QĐ-TTg ngày 26/11/2010 lấy tháng 12 hằng năm là Tháng Hành động Quốc gia về Dân số.
Như vậy Tháng Hành động Quốc gia về Dân số được tính từ ngày 1 - 31/12 hàng năm, với 2 mục tiêu chính: nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, các đoàn thể, tổ chức xã hội của mỗi người dân, mỗi cộng đồng trong việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ đối với sức khỏe, hạnh phúc của mỗi người dân, mỗi gia đình, đối với sự phát triển bền vững của đất nước, dân tộc Việt Nam.
Ngay mục tiêu thứ nhất này, chúng ta thấy rằng, công tác DS-KHHGĐ mang ý nghĩa nhân văn hết sức sâu sắc: đó là vì sức khỏe, hạnh phúc của mỗi con người, mỗi gia đình. Đồng thời cũng mang một tầm chiến lược hết sức cao. Đó là công tác DS-KHHGĐ đối với sự phát triển bền vững của đất nước, dân tộc Việt Nam, gắn kết các cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Mục tiêu 2, trong Tháng Hành động Quốc gia, quyết định nêu rõ: Tăng cường sự tham gia phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hôi, sự giúp đỡ hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế đối với công tác DS-KHHGĐ, thể hiện một tinh thần xã hội hóa rất cao.
Chúng ta đã làm công tác này suốt 50 năm qua, chúng ta rút ra nhiều bài học thành công, nhiều bài học kinh nghiệm, trong đó bài học hết sức quan trọng là sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự điều hành, sự tham gia, phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội đối với công tác DS-KHHGĐ. Nhất là trong bối cảnh hiện nay công tác DS-KHHGĐ được đặt trong ngành y tế, chúng ta càng nhận thức rõ rệt và sâu sắc hơn hết, công tác DS-KHHGĐ đòi hỏi sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của hệ thống tổ chức chính trị đối với công tác DS.
Tại sao phải có Tháng Hành động Quốc gia về Dân số? Có thể nói rằng, kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1/4/2009 đã cho thấy công tác DS đạt được thành tựu hết sức tốt đẹp. Tỷ suất sinh giảm mạnh nhất trong vòng 50 năm qua. Chúng ta đã đạt mức sinh thay thế. Rất mừng, 2 ngày qua, chúng ta tổ chức Hội nghị chuyên đề về công tác DS-KHHGĐ với đồng bào dân tộc thiểu số. Tất cả những kết quả đạt được của khu vực này đều cao hơn kết quả chung của cả nước.
Điều ấy hết sức phấn khởi. Nếu không có những số liệu minh chứng, chúng ta thấy rằng, khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số tiến quá chậm. Những số liệu đã minh chứng rằng công tác này trong 10 năm qua chúng ta đã đạt kết quả tốt đẹp, cao hơn so với khu vực đồng bằng. Tuy nhiên, công tác DS ở khu vực này còn nhiều khó khăn, thách thức với xuất phát điểm quá thấp, với những rào cản nặng nề về địa lý, văn hóa, KT-XH.
Về công tác DS của cả nước nói chung, chúng ta đứng trước những thách thức hết sức to lớn. Giảm sinh đã làm tốt nhưng chưa bền vững, còn 28/63 tỉnh thành (chiếm 34% dân số cả nước) chưa đạt mức sinh thay thế. Chất lượng dân số còn thấp. Trong khi giai đoạn tới chúng ta phải tiến nhanh, tiến mạnh để đến 2020 đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp. Làm sao có chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng dân số tốt thì mới đáp ứng được yêu cầu tiến nhanh, tiến mạnh, "đi tắt đón đầu" mà Đảng đã chỉ đạo.
Về cơ cấu dân số, chúng ta còn những bất hợp lý. Đặc biệt là tỷ số giới tính khi sinh, trong những năm qua, đã tăng lên một cách nhanh chóng. Chắc chắn rằng, nếu không xử lý sớm vấn đề này sẽ để lại những hệ lụy lâu dài. Đất nước ta cũng bước vào giai đoạn cơ cấu dân số vàng, già hóa dân số. Vậy thích ứng với những vấn đề mới này như thế nào, tôi cho rằng đây là thách thức lớn trong công tác DS.
Để giải quyết cần có sự tham gia của các cấp chính quyền, tổ chức, đoàn thể mà trong giai đoạn qua, đứng trước những thắng lợi trong công tác DS, sự sắp xếp lại tổ chức bộ máy của ngành DS. Ở nơi này, nơi đó đã có sự sao nhãng sự lãnh đạo, vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền. Chính vì vậy, trong Quyết định của Thủ tướng đã nêu rõ: phải nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, các đoàn thể, tổ chức xã hội. Bởi vì, đây đó vẫn có sự chủ quan và lơ là trong công tác DS-KHHGĐ.
Trước đây sự tham gia công tác DS của các ngành, cả hệ thống chính trị rất vững mạnh, nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương IV khóa VII ngày 14/1/1993 đã nêu lên khẩu hiệu: không để một tổ chức, cá nhân đứng ngoài cuộc vận động này. Nhưng trong thời gian qua cũng có những tổ chức, cá nhân, đoàn thể sao lãng việc này. Vì vậy, trong mục đích thứ 2 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, đó là tăng cường sự tham gia sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, kêu gọi các tổ chức quốc tế hãy tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam, ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong công tác DS-KHHGĐ.
Trong quyết định cũng phân công rõ nhiệm vụ cụ thể, trong đó có Bộ Y tế, phối hợp với các bộ ngành có liên quan, UBND các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Chúng tôi cũng đã dự thảo kế hoạch, ngay sau khi có quyết định này, trong tuần này, chúng tôi sẽ phê duyệt kế hoạch, có hướng dẫn cụ thể đối với các địa phương, các bộ ngành để triển khai Tháng hành động theo đúng chỉ đạo và quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm.
Đối với các cơ quan thông tin đại chúng có Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch, Bộ Thông tin – Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam và các cơ quan thông tin đại chúng nhân Tháng Hành động Quốc gia về Dân số, cũng là năm đầu tiên, tôi mong hãy dành nhiều thời lượng hơn nữa, nói nhiều về công tác Dân số, tuyên truyền nhiều về công tác Dân số, về những điển hình, cá nhân, tổ chức, tập thể làm tốt công tác Dân số và nhân rộng những điển hình này. Chúng ta phê phán những tiêu cực bất cập trong công tác DS-KHHGĐ, chúng ta giới thiệu những mô hình hay.
UBND các tỉnh thành phố tổ chức triển khai kế hoạch trong Tháng Hành động Quốc gia về Dân số theo hướng dẫn, chỉ đạo chung của Trung ương và các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội cùng nhau chung sức chung lòng thực hiện Tháng Hành động Quốc gia về Dân số năm 2010.
Như trên tôi đã nói, công tác Dân số của chúng ta đứng trước rất nhiều những khó khăn, thách thức. Vậy mỗi một năm chúng ta chọn chủ đề nào là chủ đề ưu tiên nhất để triển khai tháng hành động này. Năm 2010, chúng tôi lựa chọn chủ đề Kiểm soát, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh – trách nhiệm của chúng ta. Đây là một vấn đề nóng đang được dư luận xã hội, cơ quan thông tin đại chúng quan tâm. Tỉ số giới tính khi sinh đã tăng lên nhanh chóng, bất thường, và những tín hiệu rất đáng báo động. Nếu không xử lý vấn đề này, sẽ để lại những hệ lụy vô cùng sâu sắc.
Mong rằng trong năm nay, năm đầu tiên chúng ta thực hiện Tháng Hành động Quốc gia về Dân số, các địa phương tập trung tuyên truyền, các cán bộ làm công tác Dân số từ Trung ương đến địa phương sẽ tư vấn, vận động người dân chấp nhận chính sách DS-KHHGĐ của Đảng, của Nhà nước đã ban hành, xây dựng gia đình quy mô nhỏ, coi con trai cũng như con gái, đặc biệt với các tỉnh miền núi.
Thay mặt lãnh đạo Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế trân trọng cảm ơn sự có mặt của quý vị đại biểu. Chúc sức khỏe các quý vị đại biểu, chúc công tác DS-KHHGĐ của chúng ta thành công tốt đẹp. Chúc Tháng Hành động Quốc gia về Dân số năm 2010 đạt thành công rực rỡ.
Tỷ lệ nhiễm HIV đang chững lại
Ông Steve Kraus cho biết: "Chúng ta đã chứng kiến những tiến bộ đáng kể ở Việt Nam. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV đã chững lại và có ít người phải chết vì HIV hơn..."
Đại diện của Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong cuộc họp báo ngày 30/11 nhận định: Sự cam kết chính trị mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam trong 20 năm ứng phó với HIV vừa qua là một tấm gương cho các quốc gia khác và là động lực cho những thành tựu đáng kể trong việc mở rộng các dịch vụ dự phòng, điều trị cho những người sống với HIV.
5 người tiêm chích ma túy có 1 người nhiễm HIV
Nhấn mạnh chủ đề của Ngày thế giới phòng, chống AIDS năm nay "Tiếp cận phổ cập và quyền con người", ông Steve Kraus, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNAIDS và bác sĩ Gottfried Hirnschall, Giám đốc Chương trình phòng, chống HIV/AIDS của WHO cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục mở rộng, đẩy mạnh các nỗ lực, nhất là các nỗ lực nhằm đảm bảo quyền tiếp cận tới các dịch vụ toàn diện về HIV cho những nhóm chính chịu ảnh hưởng bởi HIV ở Việt Nam, gồm nam quan hệ tình dục đồng giới, người tiêm chích ma túy và phụ nữ bán dâm.
Ông Steve Kraus cho biết: "Chúng ta đã chứng kiến những tiến bộ đáng kể ở Việt Nam. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV đã chững lại và có ít người phải chết vì HIV hơn. Nhưng để duy trì được những thành quả này và đạt được các mục tiêu về tiếp cận phổ cập chúng ta phải tiếp cận được nhiều hơn đến các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao; đảm bảo rằng các chương trình can thiệp được xây dựng trên các nguyên tắc về quyền con người. Mọi người đều phải được tiếp cận tới các dịch vụ về HIV nơi họ cảm thấy an toàn, được bảo đảm chăm sóc tốt nhất mà không sợ bị kỳ thị".
Dịch HIV ở Việt Nam tập trung trong nhóm những người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm và nam quan hệ tình dục đồng giới. Tính trên phạm vi toàn quốc, cứ 5 người tiêm chích ma túy thì có 1 người nhiễm HIV. Ở một số tỉnh, thành, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm tiêm chích ma túy là hơn 50%. Một nghiên cứu tiến hành năm 2009 cho thấy, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong những phụ nữ bán dâm ở 10 tỉnh, thành trung bình là 8,5%, với sự khác biệt từ 0,3% đến 23%. Trên toàn quốc, có khoảng 243.000 người đang sống với HIV vào cuối năm 2009.
Tuy nhiên, còn nhiều bà mẹ và trẻ em chưa tiếp cận được dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. Lao và HIV vẫn còn là một gánh nặng đáng kể. Việt Nam sẽ cần đẩy mạnh và cải thiện hơn nữa các chương trình điều trị chất gây nghiện dạng thuốc phiện bằng methadone và cải thiện tính bền vững của chương trình điều trị HIV để ngăn ngừa HIV lan tràn ra cộng đồng.
TP HCM: 30-40 trẻ nhiễm HIV từ mẹ hàng năm
"Việc Việt Nam mở rộng được chương trình điều trị kháng virus lên gấp 16 lần trong vòng 5 năm qua là một thành công nổi bật. Chúng tôi mong muốn được tiếp tục hợp tác với Việt Nam trong việc thực hiện các hướng dẫn của WHO, bao gồm hướng dẫn mới về dự phòng lao cho những người sống với HIV.
Dự phòng lao rất quan trọng, bởi lao là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đối với những người sống với HIV trên toàn thế giới. Chúng tôi hy vọng những hướng dẫn mới này sẽ giúp cứu sống được nhiều người hơn", bác sĩ Hirnschall cho biết.
Bác sĩ Gottfried Hirnschall khẳng định, thông qua hợp tác với Chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự, các nhóm người sống với HIV... UNAIDS và WHO cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong nhiều năm tới để tiếp tục củng cố và cải thiện công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Theo TS.BS Lê Trường Giang, Phó Chủ tịch Ủy ban Phòng chống HIV/AIDS TPHCM, từ tháng 5/2009 đơn vị này đã phối hợp với Sở LĐ,TB&XH, Sở Y tế, Sở GD&ĐT triển khai chương trình "Chăm sóc trẻ nhiễm HIV/AIDS và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS", nhằm đáp ứng 6 nhu cầu của trẻ: Dinh dưỡng, giáo dục, tâm lý, y tế, pháp lý, nhà ở. Theo đó, đến tháng 6/2010, 837 trẻ đã được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ về y tế, giáo dục, pháp lý; 756 trẻ nhiễm HIV sử dụng thẻ bảo hiểm y tế do Bộ Y tế cấp.
Bên cạnh đó, nhờ chương trình can thiệp dự phòng mẹ con, tỷ lệ nhiễm HIV từ mẹ sang con trong 6 tháng đầu năm 2010 chỉ còn 4,5%. Bình quân hàng năm, TPHCM chỉ có khoảng 30-40 trẻ bị lây nhiễm HIV từ mẹ, thay vì 200 trẻ mỗi năm nếu không có chương trình can thiệp. Ước tính, số lượng trẻ em nhiễm HIV mới từ năm 2006-2010 tại TPHCM là 454 trẻ.