Quảng cáo thực phẩm: Vi phạm nặng sẽ tước giấy phép kinh doanh;Việt Nam khẩn trương kiểm tra; Đã ghi nhận hơn 13.000 ca bệnh tay chân miệng; Khám chữa bệnh bảo hiểm y tế: Bước đầu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh…
Tuổi trẻ
Quảng cáo thực phẩm: Vi phạm nặng sẽ tước giấy phép kinh doanh
Ngày 29/6, Phó Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm Nguyễn Thanh Phong cho hay Chính phủ đang giao Ngành Y tế xây dựng quy định về mức xử phạt vi phạm hành chính trong quảng cáo thực phẩm. Theo đó, các hành vi quảng cáo quá mức, quảng cáo khi chưa được cơ quan chức năng thẩm định nội dung có thể bị phạt đến 20-30 triệu đồng, ngoài ra có thể áp dụng thêm hình phạt bổ sung là tước giấy phép kinh doanh.
Cũng theo ông Phong, quy định hiện hành đã cấm một số hành vi trong quảng cáo thực phẩm nhưng không quy định mức chế tài, không xử phạt được nên thực tế một vài doanh nghiệp vẫn áp dụng như sử dụng thầy thuốc, thư cảm ơn của bệnh nhân… để quảng cáo sản phẩm.
Thanh niên
Ăn tiệc cưới, hơn 100 người bị ngộ độc
Hôm qua, Bệnh viện Đa khoa H.Lộc Ninh (Bình Phước) cho biết đã xảy ra một vụ ngộ độc tiệc cưới tại ấp Hiệp Tâm A (xã Lộc Hiệp, Lộc Ninh) làm 101 người bị ngộ độc. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 28.6, ông bà Hồng Mai ở ấp Hiệp Tâm A (xã Lộc Hiệp) tổ chức đám cưới cho con gái. Thức ăn do nhà hàng T.Y (xã Tân Khai, H.Hớn Quản, Bình Phước) chế biến. Sau khi nhập tiệc khoảng 30 phút thì thực khách bắt đầu bị ói mửa, đau bụng, tiêu chảy... phải đến cấp cứu tại Trạm y tế xã Lộc Hiệp và Bệnh viện Đa khoa H.Lộc Ninh. Đến chiều qua, còn 10 bệnh nhân lưu lại Bệnh viện Đa khoa Lộc Ninh để theo dõi sức khỏe.
Việt Nam khẩn trương kiểm tra
Trao đổi với Thanh Niên hôm qua, ông Nguyễn Công Khẩn, Cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) xác nhận: “Có các sản phẩm rong biển nhập vào VN, tuy nhiên hàm lượng i-ốt không phải là chỉ tiêu kiểm tra vì thông thường chất này ở mức rất thấp, và đây không phải là lượng thực phẩm được người dân dùng nhiều hằng ngày. Nhưng, trước thông tin nói trên, chúng tôi sẽ khẩn trương kiểm tra và chính thức đưa ra khuyến cáo sớm nhất trong trường hợp cần thiết”.
Khảo sát nhanh của PV Thanh Niên tại một số siêu thị và các cửa hàng bán thực phẩm khô của người Hàn Quốc ở TP.HCM cho thấy, không có sự hiện diện của loại rong biển khô Hàn Quốc có tên Wang Dried Kelp Varech Speche nhưng lại có rất nhiều loại rong biển khác xuất xứ từ Hàn Quốc được bày bán tại các siêu thị.
Tại siêu thị Co.opmart (Cống Quỳnh, Q.1) có bán các loại rong biển như Gim (loại màu hồng, và xanh dương) gói 2g; loại F&B Seasoned gói 2,7g; loại F&B Susi laver gói 25g; loại lá kim tẩm gia vị CJ gói 5g - những sản phẩm này được sản xuất từ Dongwon (Hàn Quốc), và nhập khẩu bởi Công ty Nhật Minh Thành (TP.HCM). Tại siêu thị Maximark (Cộng Hòa, Q.Tân Bình) cũng bán nhiều loại rong biển của Hàn Quốc như, rong biển dầu mè gói 2g; Kimmy classic gói 2,7g; loại khô dầu hạt cải gói 2,7g - những loại này cũng được nhập khẩu bởi Công ty Nhật Minh Thành. Tại siêu thị Big C (đường Hoàng Văn Thụ, Q.Phú Nhuận) cũng bày bán nhiều loại rong biển Hàn Quốc như: Gim (loại hồng và xanh dương) và rong biển loại sấy khô hiệu Jaban với nguyên liệu lấy từ Hàn Quốc của Công ty Green World (Biên Hòa, Đồng Nai), gói 40g. Ngoài rong biển, tại các siêu thị Co.opmart, Big C (Hoàng Văn Thụ, Q.Phú Nhuận)... cũng có bán nhiều sản phẩm tảo biển như: Sonka Green; tảo nấu canh My Yuk; tảo vị kim chi... Khảo sát tại một số cửa hàng, đại lý chuyên bán thực phẩm khô dành cho người Hàn Quốc trên đường Thăng Long, Cộng Hòa (Q.Tân Bình), chúng tôi không thấy có các loại rong biển và tảo biển như nói trên.
Thừa i-ốt sẽ rất nguy hiểm
Bác sĩ Phạm Xuân Dũng, Phó giám đốc Bệnh viện Ung bướu (TP.HCM) nói: “I-ốt là chất cần thiết cho cơ thể, nhưng quan trọng là dùng với liều lượng có giới hạn theo khuyến cáo của cơ quan y tế. Nếu dùng quá nhiều, gây dư thừa trong cơ thể sẽ dẫn đến tình trạng độc giáp, nói dễ hiểu đó là cường giáp (cường giáp do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do nồng độ i-ốt trong cơ thể quá cao). Biểu hiện thường gặp của tình trạng cường giáp là làm cho nhịp tim nhanh, rụng tóc, sụt cân, cơ thể thường nóng bức. I-ốt còn đi qua nhau thai, do vậy nó sẽ ảnh hưởng lên thai nhi, ảnh hưởng sự phát triển của trẻ. Do vậy, khi sử dụng thuốc i-ốt để điều trị cho người bệnh, bác sĩ cũng cân nhắc rất kỹ lưỡng”.
Lương y Vũ Quốc Trung (Hội viên Hội Đông y VN) cho biết: “I-ốt có nhiều trong rong biển, tảo biển. I-ốt đi vào tuyến giáp, nếu thiếu i-ốt sẽ gây nhược giáp, ảnh hưởng sự phát triển của trẻ em, giảm thiểu năng tâm thần (kém thông minh); nhưng nếu thừa sẽ gây cường giáp, gây rối loạn chuyển hóa…”.
Lượng i-ốt được khuyến cáo trong nước, theo bác sĩ Hoàng Kim Ước (Bệnh viện Nội tiết T.Ư, Hà Nội), đó là “I-ốt khuyến cáo trung bình ở người VN từ 150-200 mcg/người/ngày. Nếu cao hơn mức khuyến cáo, cơ thể sẽ đào thải ra ngoài. Nếu lâu dài, sẽ có tỷ lệ nhỏ bị tác dụng phụ thừa i-ốt. Trong trường hợp thừa i-ốt sẽ gây nên các tác dụng phụ như: tuyến giáp to ra (bệnh bướu cổ do thừa i-ốt); suy tuyến giáp. Ở phụ nữ mang thai, thừa i-ốt ngoài tác động đến mẹ có thể ảnh hưởng đến thai nhi gây thiểu năng giáp sơ sinh hoặc bướu cổ ở trẻ sơ sinh”.
Bác sĩ Yên Lâm Phúc (Học viện Quân y, Hà Nội) cho biết thêm: “Liều cơ bản của i-ốt với người lớn là 150 mcg/ngày; với trẻ em khoảng 100 mcg/ngày; với phụ nữ mang thai và cho con bú thì cần lượng i-ốt cao hơn vì họ cần sự chuyển hóa nhiều hơn, lượng cần thiết vào khoảng 200mcg/ngày với bà mẹ mang thai và 250 -290mcg/ngày với bà mẹ cho con bú”.
Theo bác sĩ Phúc, i-ốt có vai trò quan trọng trong dinh dưỡng, là nguyên tố vi lượng cần thiết cho sự phát triển bình thường của cơ thể, không thể thiếu được cho hoạt động chức năng của tuyến giáp. Tuy nhiên, bác sĩ Phúc khuyến cáo: “Nếu dùng i-ốt với liều cao có thể gây tử vong. Liều gây tử vong trên chuột là 15g/kg; trên chó là 800mg/kg; còn trên người là 30-40mg/kg thể trọng. Bị ngộ độc i-ốt do ăn quá nhiều có thể gây ra suy chức năng giáp, phù, phù phổi, viêm phổi và tử vong. Do vậy, cần cẩn thận với i-ốt”.
Mờ mắt… chờ khám mắt
Có mặt tại Bệnh viện Mắt Trung ương lúc 8 giờ sáng, tôi đã thấy một hàng người nối đuôi nhau chờ được khám mắt…
Chỉ đi qua cổng, tôi đã bị vây quanh bởi một đám “cò” bệnh viện: “mua sổ khám bệnh đi em ơi, xong chị dẫn đi khám tận nơi luôn”, hay: “em ơi trong ấy đông lắm, em mua luôn sổ và phiếu khám của chị thì vào khám chỉ mất vài phút là xong, khám thường thì khám, mà muốn khám giáo sư cũng có”…
Vì đã “đề cao cảnh giác” nên tôi từ chối, tuy nhiên sau hơn 1 tiếng xếp hàng để mua được cuốn sổ khám bệnh loại 80.000 đồng kèm theo số phiếu khám bệnh đánh số 564, tôi mới hiểu tại sao nhiều người lại chấp nhận mất tiền mua sổ của “cò” bệnh viện. Trong bệnh viện có nhiều bàn đề biển “Bàn hướng dẫn bệnh nhân khám bệnh” nhưng chẳng thấy ai ngồi đó hướng dẫn.
Một người đàn ông tên Tuyền, ở Thanh Hóa đưa cô con gái 7 tuổi tên Hoa ra khám mắt bức xúc nói: “Đi từ cổng vào dãy nhà E tôi đã thấy tới 4 bàn hướng dẫn bệnh nhân nhưng chẳng có ai mà hỏi, chẳng biết đường nào mà lần”.
Phòng chờ khám bệnh là tầng 4 tòa nhà E thật nóng bức, ngột ngạt khi hàng trăm bệnh nhân đủ mọi lứa tuổi đang chờ đến lượt.
Theo Ban thông tin tuyên truyền, Bệnh viện Mắt Trung ương, để giảm tải, bệnh viện khám muộn hơn giờ hành chính, từ 7 giờ 30 phút đến 18 giờ 30 phút, kể cả thứ 7, chủ nhật. Ngoài ra, bệnh viện có thêm phòng khám chuyên về tật khúc xạ tại 38A Trần Nhân Tông, phục vụ trong giờ hành chính. Thủ tục khám bệnh có thể tham khảo tại trang web: vnio.vn.
Lao động
Phú Yên: Bệnh viện 187 tỷ đồng vừa xây xong đã xuống cấp
Chiều 29.6, bác sĩ Phan Vũ Nhân – Phó Giám đốc Sở Y tế Phú Yên – cho biết, chỉ sau vài tháng đưa vào hoạt động, công trình BV Đa khoa Phú Yên đã xảy ra những sự cố hư hỏng nặng.
Mặc dù chủ đầu tư (Ban quản lý các công trình trọng điểm tỉnh) đã khắc phục, sửa chữa nhiều lần, nhưng vẫn không đảm bảo theo đúng yêu cầu của đơn vị sử dụng. Hiện hàng loạt hạng mục lại tiếp tục phát sinh thêm hư hỏng, gây ảnh hưởng đến các hoạt động chung của bệnh viện. Phòng khí nén bị thấm trần chảy nước xuống hệ thống máy khí nén; tầng 5 bị nước thấm sàn chảy xuống tầng 4...
Được biết, công trình Bệnh viện Đa khoa Phú Yên với tổng vốn đầu tư hơn 187 tỉ đồng, quy mô 500 giường bệnh được đưa vào sử dụng cuối tháng 8.2010.
Nhân dân
Chăm sóc sức khỏe tâm thần
Dự án 'Bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng' giai đoạn 2006-2010 đã được triển khai đến 7.700 xã trong cả nước, với hơn 160 nghìn trong tổng số hơn 329 nghìn người bệnh được quản lý, chăm sóc (đạt 49%). Ðồng thời mạng lưới chăm sóc sức khỏe tâm thần trong cả nước được củng cố và phát triển, với 33 bệnh viện chuyên khoa và hàng chục khoa tâm thần trong các bệnh viện đa khoa tỉnh, trung tâm phòng, chống các bệnh xã hội...
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe tâm thần ở nước ta vẫn còn những hạn chế, bất cập. Ngoài số giường điều trị so tỷ lệ dân số còn thấp (19 giường/100 nghìn dân), nguồn nhân lực chuyên ngành còn thiếu và yếu (mới đạt một bác sĩ/100 nghìn dân); công tác phục hồi chức năng tâm lý xã hội cho đối tượng mắc bệnh chưa được tốt... Tổ chức Y tế thế giới nhận định, sức khỏe tâm thần được xếp hàng thứ tư; còn tầm nhìn đến năm 2020, bệnh tâm thần được xếp thứ hai sau các bệnh về tim mạch. Riêng ở nước ta, sáu loại bệnh lý: tâm thần phân liệt, động kinh, trầm cảm, chậm phát triển trí tuệ, rối loạn lo âu, lạm dụng rượu đang có chiều hướng gia tăng. Bất cứ đâu ở nước ta cũng đều có người mắc một trong các dạng bệnh nêu trên.
Ðể bệnh tâm thần không còn là gánh nặng của mỗi gia đình và xã hội, một mặt Dự án 'Bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng' cần tiếp tục mở rộng triển khai, thực hiện ở khoảng 3.300 xã còn lại trong cả nước nhằm phát hiện, quản lý và điều trị cho hàng trăm nghìn người mắc các bệnh lý tâm thần. Mặt khác, quan trọng không kém là cần có biện pháp quản lý tốt hơn số người bệnh cũ, lồng ghép hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần vào các chương trình mục tiêu quốc gia khác tại cơ sở; kết hợp sử dụng thuốc mới có chất lượng cho người bệnh…
Tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế
Theo đánh giá bước đầu, sau hai năm Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) đang được triển khai theo đúng lộ trình đề ra. Quyền lợi của người tham gia BHYT từng bước được bảo đảm; tăng khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế có chất lượng; dần hướng tới mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.Tuy vậy, quá trình triển khai đang bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc cần có sự vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa của các ngành, các cấp có liên quan.
Theo báo cáo của Bộ Y tế, việc mở rộng các nhóm đối tượng được thực hiện theo đúng lộ trình của Luật. Nhóm trẻ em dưới sáu tuổi thực hiện ngay khi luật có hiệu lực thi hành (ngày 1-7-2009); nhóm học sinh, sinh viên tham gia bắt buộc từ ngày 1-1-2010; các nhóm đối tượng khác thực hiện trên cơ sở tự nguyện tham gia. Ðến nay, cả nước đã có khoảng 53 triệu người dân tham gia BHYT, tương đương khoảng 61% số dân cả nước. Năm 2010, có 8.204 cơ sở khám chữa bệnh (KCB) ký hợp đồng với cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) để thực hiện KCB cho người có thẻ BHYT, bao gồm: 50 cơ sở tuyến trung ương, 510 cơ sở tuyến tỉnh và tương đương, 1.190 cơ sở tuyến huyện và tương đương, 276 cơ sở tư nhân và 6.178 trạm y tế xã và y tế cơ quan, đơn vị. Quy định cho phép các cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập đủ điều kiện chuyên môn kỹ thuật được ký hợp đồng khám chữa bệnh cho người bệnh có thẻ BHYT và mở rộng đăng ký ban đầu tại tuyến huyện, xã góp phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên, tạo điều kiện cho người tham gia BHYT có thể lựa chọn nơi đăng ký KCB ban đầu phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận các dịch vụ y tế, nhất là với nhóm người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới sáu tuổi. Trong năm 2010 đã có 106 triệu lượt người bệnh thuộc diện BHYT đi khám chữa bệnh, tần suất khám chữa bệnh bình quân 2,1 lần/người/năm. Ðáng chú ý, đến cuối năm 2010 đã có 359 bệnh viện (chủ yếu tuyến huyện) áp dụng cơ chế thanh toán theo định suất. Bên cạnh đó, hình thức thanh toán kết hợp giữa định suất và phí dịch vụ và thanh toán trọn gói theo ca bệnh đang được áp dụng thí điểm tại một số bệnh viện, bước đầu đã cho kết quả tốt, bảo đảm quyền lợi của cả người bệnh và cơ sở KCB. Phương thức thanh toán theo trường hợp bệnh cũng bắt đầu được áp dụng thí điểm tại hai bệnh viện của Hà Nội (Thanh Nhàn và Ba Vì) với bốn nhóm bệnh là viêm ruột thừa, viêm phổi người lớn, viêm phổi trẻ em và đẻ thường.
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, số thu BHYT năm 2010 đạt 25.513 tỷ đồng, tăng 96% so năm 2009 (do có sự gia tăng số người tham gia, trong đó có việc chuyển ngân sách để bảo đảm KCB miễn phí cho nhóm trẻ em dưới sáu tuổi và do có điều chỉnh tăng mức tiền lương tối thiểu). Sau khi cân đối thu - chi, bù đắp phần bội chi của những năm trước, quỹ BHYT có kết dư khoảng 3.100 tỷ đồng.
Tuy vậy, sau hai năm thực hiện Luật BHYT, nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được tháo gỡ để phát huy giá trị cộng đồng chia sẻ trách nhiệm khi tham gia BHYT. Ðó là việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT còn chậm, số đối tượng có trách nhiệm tham gia BHYT mới đạt 70% số người tham gia. Ðặc biệt, việc cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới sáu tuổi còn chậm, hiện vẫn còn gần hai triệu trẻ chưa được cấp thẻ BHYT. Tuy quyền lợi của đối tượng này vẫn được bảo đảm, nhưng khi trẻ dưới sáu tuổi không có thẻ BHYT đi KCB, phải sử dụng giấy khai sinh, giấy chứng sinh đã gây khó khăn trong việc quản lý thẻ cũng như thanh quyết toán và quản lý quỹ của đối tượng này. Bên cạnh đó, theo báo cáo của các địa phương, năm 2010 cả nước mới có khoảng 692 nghìn người trong tổng số khoảng sáu triệu người thuộc hộ cận nghèo tham gia BHYT. Mặc dù nhóm đối tượng này đã được hỗ trợ 50% mức đóng BHYT (có nơi lên đến 80%), nhưng mới có hơn 10% số người tham gia phần nào cũng nói lên tính hấp dẫn của BHYT chưa cao. Những người cận nghèo đã tham gia BHYT đều là những người thật sự có nhu cầu cần KCB.
Vướng mắc trong thanh toán BHYT cho các trường hợp tai nạn giao thông sau hai năm triển khai theo Luật vẫn chưa có sự đồng thuận của các bộ, ngành liên quan. Việc thực hiện quy định cùng chi trả, nhất là với nhóm người nghèo, người mắc bệnh nặng, bệnh mạn tính cũng gặp những đề xuất cần sớm thay đổi. Vai trò quản lý nhà nước của UBND các địa phương cũng bị hạn chế do yếu tố tổ chức 'ngành dọc' như hiện nay. Do tổ chức hệ thống theo ngành dọc và quan hệ giữa BHXH với cơ sở y tế thực hiện theo hợp đồng khám chữa bệnh nên vai trò của UBND trong xử lý các mâu thuẫn phát sinh cũng có phần hạn chế.
Ðể nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT, trong thời gian tới, các ngành có liên quan cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền những nội dung mới của Luật BHYT đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc phổ biến và hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện Luật BHYT. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về BHYT, trên cơ sở đánh giá các quy định của Luật BHYT để có những đề xuất sửa đổi, bổ sung. Nghiên cứu, lựa chọn các phương thức thanh toán phù hợp. Tiếp tục hướng dẫn, giải quyết một số vướng mắc như: Ðăng ký khám chữa bệnh ban đầu; phát hành thẻ BHYT; thủ tục thanh toán đối với trường hợp tai nạn giao thông, một số quyền lợi của trẻ em dưới sáu tuổi... Tăng cường, nâng cao năng lực hệ thống quản lý nhà nước về BHYT từ trung ương đến địa phương, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện BHYT, tập trung thực hiện quy chế chuyên môn, chống lạm dụng quỹ BHYT. Ðồng thời nâng cao chất lượng khám chữa bệnh đáp ứng sự hài lòng của người bệnh BHYT. Các ngành chức năng cần đẩy nhanh tiến độ cấp, đổi thẻ BHYT, nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giám định BHYT bảo đảm kiểm soát chất lượng KCB và sử dụng quỹ BHYT có hiệu quả.
Với quyết tâm thực hiện nghiêm Luật BHYT, ngày BHYT Việt Nam năm nay (1-7) được lấy chủ đề hành động là 'Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ y tế đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số và trẻ em dưới sáu tuổi trong khám, chữa bệnh BHYT'. Ðây là cơ hội để khẳng định quyết tâm của toàn xã hội, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHYT, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cơ quan, tổ chức, công dân về BHYT cũng như việc bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT; tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế có chất lượng, nhất là đối với người tham gia BHYT thuộc diện chính sách xã hội và đối tượng đang sinh sống tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Có như vậy vừa góp phần đưa Luật BHYT dần đi vào cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội trong sự phát triển bền vững, từng bước thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân.
TP Hồ Chí Minh đưa 45 loại thuốc vào danh mục bình ổn giá
Ngày 28-6, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thị Hồng đã chủ trì buổi làm việc với các sở, ngành chức năng về tiến độ triển khai chương trình bình ổn thị trường các mặt hàng dược phẩm thiết yếu trên địa bàn TP.
Đại diện Sở Y tế TPHCM cho biết, TPHCM hiện có 3.656 nhà thuốc, trong đó có 2.640 nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP. Sau gần 2 tháng triển khai bình ổn giá thuốc, sở đã làm việc và tiến hành ký kết để đưa 45 loại thuốc bình ổn vào bán tại khoảng 350 nhà thuốc trên địa bàn TP, trong đó 100% nhà thuốc bệnh viện đã có thuốc bình ổn. Tất cả các nhà thuốc này đều tuân thủ đúng quy định của các cơ quan chức năng trong việc treo băng rôn của chương trình bình ổn, niêm yết giá thuốc…
Doanh thu của các DN tham gia chương trình tiếp tục tăng nhẹ so với hồi đầu tháng 6. Sở Y tế đang tiếp tục đẩy mạnh việc quảng bá về các loại thuốc bình ổn, mở rộng các điểm bán cũng như phát động các bác sĩ tại các bệnh viện tăng cường kê thuốc nội, thay cho thuốc ngoại, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình.
Phát biểu chỉ đạo, Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Hồng yêu cầu Sở Y tế báo cáo UBND TP định kỳ hàng tháng về kết quả triển khai thực hiện. Cụ thể, trong tháng 7 sắp tới, cần phát triển, đa dạng hóa hệ thống phân phối, các điểm bán hàng bình ổn tại các nhà thuốc bệnh viện, nhà thuốc chuỗi doanh nghiệp và nhà thuốc tư nhân trên địa bàn dân cư. Phấn đấu chậm nhất đến cuối năm 2011, tất cả nhà thuốc đạt chuẩn GPP đều tham gia phân phối các mặt hàng dược phẩm nằm trong danh mục bình ổn.
Hà Nội mới, Khoa học & Đời sống
Đã ghi nhận hơn 13.000 ca bệnh tay chân miệng
Ngày 29-6, TS. Nguyễn Văn Bình, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết, từ đầu năm đến nay, trên cả nước đã ghi nhận hơn 13.000 ca mắc bệnh tay chân miệng (TCM), trong đó hơn 40 trường hợp tử vong (hai năm 2009, 2010 mới có hơn 10.000 ca TCM).
Hiện tại, nhiều địa phương vẫn đang tiếp tục ghi nhận bệnh nhân, chủ yếu là bệnh nhi như TP Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Ninh Bình… Riêng tại tỉnh Ninh Bình, Bệnh viện Sản - Nhi của tỉnh đã tiếp nhận 300 trẻ em mắc TCM trong 2 tháng qua (60% ca bệnh do chủng virus EV71 gây ra). Hiện phác đồ điều trị bệnh TCM đã được chỉnh sửa, cập nhật và đang chờ Bộ Y tế phê duyệt. Phác đồ mới được xây dựng theo hướng phân rõ độ nặng nhẹ của bệnh so với phác đồ hiện hành, hướng dẫn chi tiết về triệu chứng của từng giai đoạn bệnh nhằm giúp bác sĩ và điều dưỡng dễ nhận biết giai đoạn bệnh.
Hà Nội mới
Nhiều hộ dân vẫn đang sử dụng nước nhiễm asen cao hơn tiêu chuẩn
Ngày 29-6, Bộ Y tế và Viện Nghiên cứu Chulabhorn (Thái Lan) đã tổ chức hội thảo "Asen và ảnh hưởng lên sức khỏe con người". Nội dung hội thảo tập trung vào thảo luận các biện pháp giảm thiểu tác hại của phơi nhiễm asen, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở những nơi nguồn nước bị ảnh hưởng của asen.
Kết quả đề tài "Nghiên cứu ảnh hưởng của ô nhiễm asen trong nguồn nước ăn uống, sinh hoạt tới sức khỏe, bệnh tật của cộng đồng dân cư vùng Đồng bằng sông Hồng và biện pháp khắc phục" đưa ra tại hội thảo cho thấy, sau lọc, hàm lượng asen vượt mức cho phép (>10mcrg/l) được dùng cho ăn uống vẫn chiếm đến 2/3 số hộ được nghiên cứu.
Đặc biệt, có đến 14,7% số hộ dân sử dụng nước uống có hàm lượng asen cao hơn mức 50mcrg/l gặp nhiều nhất ở Vĩnh Phúc, Hà Nội, Nam Định. Tỷ lệ bệnh nhiễm độc asen mạn tính (mức độ nhẹ) trong cộng đồng dân cư sử dụng nước ô nhiễm asen để ăn uống là 1,6%.
Qua kiểm tra tình hình sức khỏe của 3.700 người dân sử dụng nguồn nước ngầm có ô nhiễm asen trên 0,05 mg/l để ăn uống và sinh hoạt tại 8 tỉnh Đồng bằng sông Hồng: 64,7% bị suy nhược thần kinh; 32,8% bị rối loạn vận mạch; bệnh lý về thai sản chiếm 32,7%; rụng tóc (25,6%), rối loạn cảm giác (19%)...
Sức khỏe & Đời sống
Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu làm việc tại tỉnh Bắc Giang:
Tiếp tục nâng cấp trang thiết bị y tế cơ sở: Ngày 29/6, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu cùng đoàn công tác của Bộ Y tế đã đến thăm và làm việc tại tỉnh Bắc Giang. Tiếp và làm việc với đoàn công tác có đồng chí Bùi Văn Hải - Phó Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang. Tỉnh Bắc Giang hiện có 7 BVĐK và chuyên khoa tuyến tỉnh, 9 BVĐK tuyến huyện, đạt 17,8 giường bệnh/vạn dân và 6,6 bác sĩ/vạn dân; hơn 95% xã/ phường/thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Trên cơ sở Đề án 1816, ngành y tế Bắc Giang đã triển khai mô hình chăm sóc người bệnh toàn diện theo đội tại các BV. Đến nay, tỉnh đã có 106 đội, 54 khoa với trung bình gần 2.000 người được chăm sóc toàn diện theo đội/ngày. Bắc Giang cũng đã thực hiện hiệu quả nguồn vốn trái phiếu Chính phủ thông qua việc hoàn thành và đưa vào sử dụng5/9 BV tuyến huyện, 1 BVĐK khu vực, đầu tư cải tạo các BV chuyên khoa, ĐK các huyện…
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu đánh giá cao những kết quả ngành y tế của tỉnh đã đạt được,đặc biệt là việc thành lập khoa Ung bướu tại BVĐK tỉnh đã góp phần giảm tỷ lệ chuyển viện xuống còn 15%. Bộ trưởng nhấn mạnh, Bộ sẽ tiếp tục tham mưu với Chính phủ về nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để hoàn thiện các dự án cải tạo, nâng cấp BVĐK huyện, BV chuyên khoa. Trong chuyến công tác, Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu đã tới thăm, tặng quà tại BVĐK huyện Yên Thế; Trạm y tế xã Dĩnh Trì -TP. Bắc Giang.
Khẩn trương vệ sinh môi trường, phòng chống dịch sau bão lũ
Trước những thiệt hại nặng nề do cơn bão số 2 gây ra cho đời sống người dân tại nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung, ngày 29/6, Bộ Y tế cho biết đã chỉ đạo ngành y tế tại các địa phương trong vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai triển khai ngay công tác phòng chống dịch bệnh và vệ sinh môi trường sau bão lũ theo phương châm nước rút đến đâu làm vệ sinh ngay đến đấy. Các địa phương phải khẩn trương khử trùng nguồn nước, tổ chức vệ sinh môi trường tránh để dịch bệnh bùng phát, nhất là đối với một số bệnh truyền nhiễm như: tiêu chảy cấp, tả, thương hàn, đau mắt đỏ, sốt xuất huyết… đồng thời phải đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân làm tốt công tác vệ sinh phòng bệnh, đảm bảo nguồn nước sạch, ăn chín uống sôi. Chủ động phát hiện sớm và giám sát chặt các ổ dịch có nguy cơ bùng phát, có kế hoạch phòng chống và dập dịch kịp thời…
Bệnh truyền nhiễm vẫn là mối nguy lớn
Ngày 29/6, tại Quảng Ninh, Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) đã tổ chức hội nghị phổ biến Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm và các văn bản hướng dẫn luật cho các cơ quan thông tấn, báo chí. Tại hội nghị, TS. Nguyễn Văn Bình, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết, hiện nay, dịch bệnh truyền nhiễm vẫn là mối nguy lớn đối với các nước kém phát triển và điều kiện vệ sinh kém.
Trong những năm qua, ngành y tế đã có nhiều cố gắng nhằm khống chế và đẩy lùi dịch bệnh. Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Văn Bình, công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm đang phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức mới về sự gia tăng cả số lượng và tính chất nguy hiểm của các bệnh truyền nhiễm mới nổi và cả một số bệnh đã được khống chế trước đây.
Khám chữa bệnh bảo hiểm y tế: Bước đầu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh
Từ ngày 1/1/2010, Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) chính thức được triển khai áp dụng toàn diện và đầy đủ trong phạm vi toàn quốc. Sau hơn một năm triển khai thực hiện, Luật BHYT đa đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Nhân dịp Ngày BHYT Việt Nam (1/7/2011), phóng viên báo Sức khỏe&Đời sống đa có cuộc phỏng vấn TS. Nguyễn Quốc Triệu - Bộ trưởng Bộ Y tế về những nội dung xung quanh vấn đề này.
Sau 1 năm triển khai, thời gian chưa đủ dài để đánh giá một cách đầy đủ về Luật BHYT, song có thể nói rằng, luật đã thực sự tạo chuyển biến tích cực, huy động được sự tham gia của các cấp, các ngành và được người dân đồng tình hưởng ứng, góp phần đưa Luật BHYT dần đi vào cuộc sống. Xin Bộ trưởng chia sẻ những kết quả đạt được ban đầu đầy ý nghĩa này?
Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu: Năm 2010, cùng với những thành tựu chung của ngành, BHYT là một trong 10 thành tựu nổi bật. Đạt được kết quả này, cùng với sự nỗ lực của ngành y tế, còn sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội đã giám sát ghi nhận, tính đến ngày 31/12/2010, đã ban hành được 17 văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BHYT. Như vậy sovới mặt bằng chung thì Luật BHYT được đánh giá là có văn bản hướng dẫn đầy đủ và đúng tiến độ nhất. Song song, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 38 về “Đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới”. Văn bản đã phát huy tác dụng lớn trong tuyên truyền, phổ biến, cùng với tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
 |
Khám chữa bệnh BHYT ngày càng nâng cao về chất lượng. Ảnh: TM |
Kết quả chung nhất là, số người tham gia BHYT đã tăng từ 39,8 triệu người năm 2008 lên 50,8 triệu người (đầu năm 2011), đạt tỷ lệ bao phủ 60% dân số, trong đó có 8,1 triệu trẻ em dưới 6 tuổi; 13,5 triệu người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số; 9,8 triệu học sinh - sinh viên; 690.000 người thuộc hộ cận nghèo...
Với chủ đề “BHYT - Chất lượng và sự hài lòng của người bệnh”, thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh toàn ngành đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, các cơ sở khám chữa bệnh (KCB) đã thực hiện đổi mới, áp dụng công nghệ thông tin; từng bước đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHYT, nâng cao chất lượng KCB đáp ứng sự hài lòng của người bệnh. So với năm trước, năm 2010, số lượt KCB BHYT đã tăng 24%, số thu BHYT tăng 91%. Năm 2010 cũng là năm Quỹ BHYT tự cân đối được thu chi, bắt đầu có kết dư.
Cùng với việc chỉ đạo nâng cao chất lượng KCB nói chung, chất lượng BHYT nói riêng, Bộ Y tế cũng đang khẩn trương triển khai thí điểm các phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo cơ chế định suất, theo trường hợp bệnh nhằm nâng cao trách nhiệm của các bên liên quan trong việc quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí BHYT, đồng thời góp phần giúp các bệnh viện chủ động trong điều hành kinh phí. Công tác quản lý nhà nước ở TW và địa phương đã được tăng cường cả về tổ chức bộ máy, nhân sự, lề lối làm việc, đảm bảo phối hợp chặt chẽ, đồng bộ hơn.
Hiện tại Bộ Y tế đang khẩn trương phối hợp với các bộ, ngành liên quan để kịp thời tháo gỡ, mở rộng đối tượng tham gia BHYT; giảm thiểu khó khăn, phiền hà của người dân về thủ tục trong KCB BHYT; thanh toán chi phí KCB BHYT; quan hệ giữa cơ sở KCB và cơ quan BHXH; đặc biệt trong thanh toán BHYT cho các trường hợp tai nạn giao thông, bệnh mạn tính, người nghèo...
Thưa Bộ trưởng, những kết quả đạt được về BHYT như trên có phần đóng góp của bộ máy truyền thông (trong đó có cuộc thi kiến thức “Chính sách pháp luật về BHYT” trên báo Sức khỏe&Đời sống). Xin Bộ trưởng đánh giá vai trò của truyền thông về BHYT?
Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu: BHYT là một chính sách xã hội, vì vậy để triển khai có hiệu quả chính sách này cần phải có sự tham gia của cả hệ thống chính trị, vai trò rất quan trọng của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, nâng cao hiểu biết và tự nguyện hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Thực tế cho thấy, các hoạt động truyền thông về BHYT thời gian qua với nhiều hình thức phong phú, đa dạng đã đem lại hiệu quả thiết thực, giúp người dân hiểu được những ưu việt của chính sách BHYT, tạo thuận lợi cho cả người tham gia BHYT, các cơ sở KCB và cơ quan quản lý Quỹ BHYT, giảm bớt những bức xúc trong thực hiện BHYT.
Tôi cũng đánh giá cao sáng kiến của báo Sức khỏe&Đời sống phối hợp với Vụ BHYT tổ chức cuộc thi kiến thức “Chính sách pháp luật về BHYT”. Đây là cuộc thi có số lượng người tham gia dự thi đông nhất so với các cuộc thi trước. Chứng tỏ người dân đã quan tâm, hiểu biết hơn về BHYT, tác động đến tham gia BHYT nhanh hơn, nhiều hơn.
Để luật tiếp tục đi vào cuộc sống, tiến tới BHYT toàn dân, xin Bộ trưởng cho biết một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới?
Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu: Ngành y tế đang xây dựng Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011- 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Tiếp tục triển khai thực hiện Luật BHYT được đặt ra như một trong những mục tiêu quan trọng mạnh mẽ của chiến lược. Và để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT, sớm đạt mục tiêu BHYT toàn dân trong thời gian tới, xác định một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
- Coi trọng tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về BHYT, giải đáp được những yêu cầu đang bức xúc từ cuộc sống.
- Tiếp tục duy trì, đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông BHYT, xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong việc phổ biến, vận động và tổ chức thực hiện Luật BHYT; nâng cao hiểu biết, thường xuyên, đối thoại với nhân dân, tháo gỡ những vướng mắc, trở ngại thực hiện BHYT.
- Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ KCB; thực hiện chăm sóc liên tục và chăm sóc toàn diện cho người bệnh; xây dựng chương trình bảo đảm và cải thiện chất lượng dịch vụ y tế. Kiểm soát kê đơn, sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, đặc biệt lưu ý chống nguy cơ lạm dụng thuốc, xét nghiệm cận lâm sàng, dịch vụ kỹ thuật cao. Xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng dịch vụ KCB từ Trung ương đến địa phương.
- Tăng cường, nâng cao năng lực hệ thống quản lý nhà nước BHYT từ Trung ương đến địa phương và mỗi đơn vị cơ sở. Tổ chức tổng kết, đánh giá toàn diện, đầy đủ việc thực hiện luật và các chính sách BHYT, chú trọng đến xây dựng mô hình tổ chức thực hiện và nội dung quản lý nhà nước sát hợp về BHYT theo thông báo số 137/TB-CPCP ngày 10/6/2011 của Văn phòng Chính phủ.
- Đồng thời, rất coi trọng đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính ngành y tế, tăng nhanh đầu tư công cho y tế. Đặc biệt, tổ chức thực hiện tốt chỉ đạo “Chuyển việc chi ngân sách nhà nước cho các cơ sở KCB sang chi trực tiếp cho người được hưởng BHYT thông qua việc hỗ trợ BHYT…” như đã ghi trong Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ ngày 18/4/2005, nhắc lại trong Chỉ thị của Ban Bí thư số 38- CT/TƯ ngày 7/9/2009 về “Đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới”.
Luật Bảo hiểm y tế: Nhìn lại sau hơn một năm triển khai thực hiện
Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) chính thức được triển khai áp dụng toàn diện và đầy đủ trong phạm vi toàn quốc từ ngày 1/1/2010 đã tạo nên những thay đổi quan trọng không chỉ về cơ chế, chính sách tài chính y tế mà còn tác động đến nhiều mặt của hoạt động khám chữa bệnh (KCB) cho nhân dân và khẳng định quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong tiến trình đổi mới cơ chế tài chính y tế thông qua BHYT, với mục tiêu BHYT toàn dân, xây dựng nền y tế Việt Nam theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển.
Sau hơn một năm triển khai thực hiện, thời gian chưa đủ dài để đánh giá một cách đầy đủ về Luật BHYT, song có thể nói rằng, cùng với sự tăng cường vai trò quản lý nhà nước về y tế nói chung và BHYT nói riêng, đặc biệt là trách nhiệm của Bộ Y tế trong việc phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong tổ chức thực hiện luật đã thực sự tạo chuyển biến tích cực, huy động được sự tham gia của các cấp, các ngành và được người dân đồng tình hưởng ứng, góp phần đưa Luật BHYT dần đi vào cuộc sống, tiến tới BHYT toàn dân như mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Công tác tổ chức thực hiện, tuyên truyền đa dạng
Thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 07/9/2009 của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới”, công tác truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật đã được Bộ Y tế quan tâm chỉ đạo với nhiều hình thức, nội dung khác nhau và đã huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị trong tổ chức thực hiện Luật BHYT. Cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã ban hành chỉ thị, nghị quyết chuyên đề, quyết định nhằm thúc đẩy thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT. Nhiều địa phương tổ chức các chuyên mục trên báo địa phương và đối thoại trực tiếp với nhân dân về chủ trương, chính sách BHYT trên phương tiện thông tin đại chúng (Hà Nam, Đà Nẵng, Hải Phòng...). 51 tỉnh đã ban hành văn bản chỉ đạo thực hiện BHYT, một số địa phương đã chủ động dùng nguồn ngân sách địa phương hỗ trợ mức đóng BHYT cho người thuộc hộ cận nghèo, học sinh, sinh viên (TP. Hà Nội, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Hải Dương, Nghệ An…), hỗ trợ một số nhóm đối tượng người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện quy định cùng chi trả 5% chi phí KCB (Khánh Hòa, Quảng Nam...). Các hoạt động tuyên truyền đã đem lại hiệu quả, tạo thuận lợi cho cả người tham gia BHYT, các cơ sở KCB và cơ quan quản lý quỹ BHYT, giảm bớt những bức xúc trong thực hiện BHYT.
Kết quả đạt được
Năm 2010, số đối tượng tham gia BHYT đã tăng từ 39,8 triệu người năm 2008 lên 50,8 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 60% dân số. Đến nay, có 8.204 cơ sở KCB ký hợp đồng để thực hiện KCB cho người có thẻ BHYT bao gồm: 50 cơ sở tuyến trung ương, 510 cơ sở tuyến tỉnh và tương đương, 1.190 cơ sở tuyến huyện và tương đương, 276 cơ sở tư nhân và 6.178 trạm y tế xã và y tế cơ quan/đơn vị. So với năm trước, năm 2010, số lượt KCB BHYT đã tăng 24%, số thu BHYT tăng 91%. Năm 2010 cũng là năm quỹ BHYT tự cân đối được thu chi, bắt đầu có kết dư.
Công tác quản lý nhà nước về BHYT đã được tăng cường, thể hiện qua sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và trách nhiệm của các bộ, ngành, tổ chức đoàn thể. Công tác tham mưu quản lý nhà nước về BHYT tại Sở Y tế các tỉnh, thành phố đã có những chuyển biến tích cực hơn, thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách, xây dựng các văn bản chỉ đạo các cơ sở KCB trên địa bàn.
Một số vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện: Sau một năm thực hiện Luật BHYT, bên cạnh những kết quả bước đầu, quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, đó là việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT theo quy định của luật còn chậm, sự phối hợp liên ngành y tế - lao động thương binh và xã hội - BHXH chưa chặt chẽ, dẫn tới tình trạng xác định đối tượng, lập danh sách, cấp thẻ BHYT chưa kịp thời, nhất là với nhóm người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi. Vẫn còn tình trạng người tham gia BHYT phàn nàn về thủ tục KCB phiền hà, về quy định cơ sở đăng ký KCB ban đầu, chuyển tuyến KCB và phân bổ thẻ KCB BHYT. Bên cạnh đó, vẫn còn một số vướng mắc trong thanh toán chi phí KCB giữa cơ sở KCB và cơ quan bảo hiểm xã hội; trong thanh toán BHYT cho các trường hợp tai nạn giao thông, thực hiện quy định cùng chi trả... Công tác tuyên truyền chưa được quan tâm đúng mức, một bộ phận người tham gia BHYT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, người nghèo còn thiếu thông tin về những quy định mới của luật BHYT. Ngoài ra, Sở y tế chưa có bộ phận chuyên trách theo dõi, tham mưu về quản lý nhà nước và thực hiện BHYT, cán bộ chủ yếu là kiêm nhiệm nên nhiều vướng mắc, vấn đề phát sinh trong thực tế chưa được tháo gỡ, giải quyết kịp thời.
Tiếp tục nâng cao chất lượng KCB đáp ứng sự hài lòng của người bệnh BHYT: Luật BHYT mới có hiệu lực đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội nước ta. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT, trước hết, cần tiếp tục duy trì, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong việc tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện luật BHYT. Công tác tuyên truyền cần chú trọng nội dung, đối tượng, hình thức tuyên truyền, nhất là những nội dung mới của Luật BHYT đồng thời nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người dân trong việc tham gia BHYT, trong việc thực hiện cùng chi trả chi phí KCB. Năm 2011, nội dung tuyên truyền cần tập trung vào chủ đề hành động của Ngày BHYT Việt Nam - 1/7/2011 là: “Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ y tế đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số và trẻ em dưới 6 tuổi trong khám, chữa bệnh BHYT”.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về BHYT, trên cơ sở đánh giá các quy định của luật BHYT để có những đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời. Nghiên cứu, thí điểm thực hiện các phương thức thanh toán BHYT theo quy định của luật, đồng thời tiếp tục hướng dẫn, giải quyết một số vướng mắc: đăng ký KCB ban đầu; thủ tục thanh toán đối với trường hợp tai nạn giao thông…
Ba là, tăng cường, nâng cao năng lực hệ thống quản lý nhà nước về BHYT từ trung ương đến địa phương. Tổ chức đánh giá một cách toàn diện việc thực hiện luật BHYT và quy chế phối hợp hoạt động giữa ngành y tế và bảo hiểm xã hội.
Bốn là, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về BHYT, tập trung thực hiện quy chế chuyên môn, chống lạm dụng quỹ BHYT.
Năm là, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh đáp ứng sự hài lòng của người bệnh BHYT, tập trung đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý bệnh viện, quản lý BHYT, thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong KCB, bảo đảm thuận tiện, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh.
Tiền phong
Tiếp nhận nhiều ca mổ tim chuyển từ Lào
Gần đây, những ca mổ tim khó ở Lào thường được chuyển sang Việt Nam do kỹ thuật mổ tim ở ta phát triển nhanh chóng. Các bác sĩ Bệnh viện Nhi T.Ư vừa phẫu thuật thành công cho một bệnh nhi người Lào bị dị tật tim bẩm sinh đảo gốc động mạch. Bệnh nhân được chuyển cấp cứu bằng máy bay từ Lào sang Việt Nam trong tình trạng nguy cấp. Đây là một trong những dị tật tim nặng nhất ở trẻ sơ sinh, nguy cơ tử vong cao.
Th.s, bác sĩ Nguyễn Ánh Dương, Phó trưởng khoa Hồi sức Ngoại (Bệnh viện Nhi T.Ư) cho biết, bệnh nhi Anut Seng Pha Chan nhập viện khi mới 11 ngày tuổi, trong tình trạng tím tái, khó thở, lượng oxy trong máu xuống rất thấp, nguy cơ tử vong cận kề. Siêu âm cho thấy bé bị dị tật đảo gốc động mạch. Hai tuần sau khi ca phẫu thuật kết thúc, chiều 27-6, bé Anut đã được xuất viện về Lào trong tình trạng sức khỏe ổn định.
TS Trần Minh Điển, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi T.Ư cho biết, mỗi tuần bệnh viện này phẫu thuật cho 2 hoặc 3 bệnh nhi bị dị tật đảo gốc động mạch. Đây là một phẫu thuật khó vào bậc nhất trong phẫu thuật tim bẩm sinh. Chỉ cách đây 3 năm trở về trước, khi y học Việt Nam chưa phát triển nhiều về kỹ thuật mổ dị tật tim bẩm sinh, tỷ lệ trẻ sinh ra bị tử vong do đảo gốc động mạch lên tới 90% trong năm đầu tiên của cuộc đời. Phần lớn trẻ tử vong khi mới được 3 đến 4 tháng tuổi. Hai năm trở lại đây, nhờ kỹ thuật mổ tim phát triển nhanh chóng nên tỷ lệ cứu sống trẻ bị đảo gốc động mạch lên tới 80-90%.
Phẫu thuật đảo gốc động mạch là kỹ thuật mới trong phẫu thuật tim mạch. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có Bệnh viện Tim Hà Nội, Bệnh viện Tim TPHCM và Bệnh viện Nhi T.Ư là có thể phẫu thuật cho bệnh nhi mắc dị tật này. Mới đây các bác sĩ Bệnh viện Nhi T.Ư đã sang Lào để chuyển giao kỹ thuật mổ tim hở. Nhưng do ngành y tế của Lào chưa phát triển nên trang thiết bị và trình độ của bác sĩ còn hạn chế, do đó những ca mổ khó như đảo gốc động mạch chưa thể tiến hành được, phải chuyển bệnh nhân sang Việt Nam.