VietinBank trao tặng Bộ Y tếthêm 5 xe ôtô phục vụ Đề án 1816;Bệnh viện Phụ sản Trung ương đón nhậnDanh hiệu Anh hùng Lao động Thời kỳ đổi mới;Mỗi năm khoảng 13.500 ca mắc mới ung thư cổ tử cung;Hà Nội sẽ có BV Nhi hạng I;Giải bài toán tài chính y tế: Gỡ nút từ đâu?;Phẫu thuật thành công cho bệnh nhi10 tháng tuổi bị bất thường động mạch vành;100 ca đục thủy tinh thể được phẫu thuật miễn phí
Sức khoẻ & Đời sống
VietinBank trao tặng Bộ Y tế thêm 5 xe ôtô phục vụ Đề án 1816
Ngày 8/12, tại Bộ Y tế, Ngân hàng VietinBank đã trao tặng Bộ Y tế 5 xe ôtô (7 chỗ, 2 cầu) cho 5 đơn vị là: BV Việt Đức, BV K, BV Châm cứu Trung ương, BV Y dược TP.HCM, BV Hữu Nghị để phục vụ cho Đề án 1816. Đây là lần trao xe thứ 2 của Ngân hàng VietinBank trong việc hỗ trợ Đề án 1816 (tổng cộng 10 xe ôtô, trị giá gần 10 tỷ đồng). Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu đã cảm ơn Ngân hàng VietinBank đã ủng hộ Đề án 1816. Bộ trưởng cho biết, trong 2 năm thực hiện Đề án, đã có hơn 210.000 lượt người được khám chữa bệnh. Đặc biệt đã có hơn 6.000 ca phẫu thuật đã được thực hiện ngay tại y tế cơ sở mà không cần phải đến các trung tâm y tế lớn. Bộ trưởng cũng đề nghị các BV được nhận xe trong lần trao tặng này sử dụng xe đúng mục đích là phục vụ cho Đề án 1816 giúp Đề án 1816 ngày càng hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích cho người dân, nhất là người dân ở các vùng sâu, vùng xa.
Bệnh viện Phụ sản Trung ương đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lao động Thời kỳ đổi mới
Ngày 7/12, Kỷ niệm 55 năm thành lập Bệnh viện Phụ sản Trung ương (BVPSTW) (1955-2010), Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan và Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu đã đến dự. Phó Chủ tịch nước đã trao tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới cho tập thể các giáo sư, y bác sĩ và toàn thể cán bộ công nhân viên BVPSTW.
Trải qua 55 năm xây dựng và trưởng thành, vượt qua bao gian khó, các thế hệ giáo sư, thầy thuốc BV đã nỗ lực phấn đấu trở thành cơ sở đầu ngành nghiên cứu chuyên sâu nhất sản khoa lớn nhất cả nước với đội ngũ các chuyên gia hàng đầu về sản khoa của Việt Nam.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu, ghi nhận và biểu dương những cố gắng vượt bậc của tập thể cán bộ công nhân viên BV thời gian qua, đồng thời đề nghị BV cần duy trì và làm tốt nhiệm vụ cho xứng đáng với danh hiệu BV Anh hùng trong thời kỳ đổi mới để trở thành tấm gương và mô hình tiên tiến để mọi người noi theo, tiếp tục thực hiện Đề án 1816, chuyển giao kỹ thuật cho 28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc về sản phụ khoa... Nhân dịp này, tập thể và cá nhân của BV đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế, Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng nhiều huân chương, bằng khen, cờ thi đua.
Mỗi năm khoảng 13.500 ca mắc mới ung thư cổ tử cung
Đây là số liệu được đưa ra tại Hội thảo “Ung thư cổ tử cung (UTCTC) tại Việt Nam: Các chiến lược tiêm vaccin HPV và tiếp cận dự phòng toàn diện” do Viện Vệ sinh dịch tễ TW phối hợp với Tổ chức PATH tổ chức ngày 8/12 tại Hà Nội. Theo đó, UTCTC đứng thứ 4 trong 10 loại ung thư phổ biến nhất ở nữ giới và tỉ lệ mắc chuẩn theo tuổi của UTCTC tính chung cả nước là 15,7/100.000 dân. Tuy nhiên, UTCTC có thể phòng tránh được bằng cách tiêm vaccin ngừa HPV ở nữ giới trong độ tuổi từ 9-26 chưa nhiễm HPV .
Hà Nội sẽ có BV Nhi hạng I
UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Quyết định số 5989/QĐ-UBND về việc chấp thuận chủ trương thành lập Bệnh viện Nhi Hà Nội trực thuộc Sở Y tế. Theo đó, UBND TP giao Giám đốc Sở Y tế chủ trì phối hợp với các ban ngành liên quan để tiến hành các thủ tục cần thiết lập dự án đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc, trang thiết bị, phương tiện… Đồng thời phối hợp xây dựng đề án, tờ trình, dự thảo quyết định thành lập; lập kế hoạch, chương trình để chuẩn bị lực lượng cán bộ chủ chốt tuyển dụng bác sĩ, dược sĩ và điều dưỡng, kỹ thuật viên y tế… theo cơ cấu, tiêu chuẩn chuyên ngành cho phù hợp để triển khai hoạt động. Bệnh viện Nhi Hà Nội được thành lập với quy mô hạng I - với 500 giường bệnh.
Giải bài toán tài chính y tế: Gỡ nút từ đâu?
Làm thế nào để hình thành được một cơ chế tài chính y tế công bằng, hiệu quả và bền vững? Vấn đề này đã được các đại biểu quan tâm bàn thảo trên những góc độ khác nhau từ tài chính BV, tài chính dự phòng, chất lượng KCB đến BHYT... tại Hội nghị đổi mới cơ chế tài chính y tế - Thực trạng và giải pháp do Bộ Y tế, Hội Khoa học Kinh tế y tế Việt Nam tổ chức trong hai ngày 7 - 8/12 tại Hà Nội.
Mức thu không còn phù hợp
Phát biểu tại hội nghị, TS. Nguyễn Quốc Triệu, Bộ trưởng Bộ Y tế nêu rõ: hiện nay Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách lớn liên quan trực tiếp đến hệ thống y tế và tài chính y tế như Luật BHYT, Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Nghị quyết 18 của QH, Nghị định 69 của Chính phủ và các quyết định 47, 930 về sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ để tạo cơ chế tài chính cho y tế, góp phần tạo nên sự thay đổi sâu sắc trong cơ cấu tài chính y tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, chi tiêu trực tiếp của người dân và đóng góp qua BHYT cũng đang tăng lên. Hệ thống BV công đã và đang chuyển dần qua cơ chế tự chủ tài chính… Mặc dù vậy, theo Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu, nhu cầu đầu tư cho y tế lớn, yêu cầu của nhân dân ngày càng cao trong khi nguồn lực đầu tư cho y tế còn hạn chế. Chính sách viện phí và cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp y tế còn chậm đổi mới; Việc triển khai BHYT còn gặp nhiều khó khăn; Việc chuyển đổi hoạt động của các cơ sở KCB chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thị trường…
Theo GS.TSKH. Phạm Mạnh Hùng - chuyên gia cao cấp của Ban Tuyên giáo TW, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế cho rằng, mức thu của một số dịch vụ kỹ thuật tính từ năm 1995 đã không phù hợp sự trượt giá và tăng giá thành theo thời gian, nhiều dịch vụ mới thu từ 30-50% giá thành, một số dịch vụ còn chưa có giá. Mức thu phí chưa bù đắp chi phí trực tiếp, chưa kết cấu tiền công lao động dẫn đến khó hạch toán và đảm bảo chất lượng chữa bệnh… Còn ở góc độ tài chính y tế dự phòng, TS. Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của QH cho biết, mặc dù Nghị quyết 18 của QH đã quy định các địa phương phải dành 30% ngân sách chi cho công tác y tế dự phòng, tuy nhiên qua giám sát thực tế, hiện nay khá nhiều địa phương vẫn chưa thực hiện đúng việc này, khiến cho công tác y tế dự phòng còn gặp nhiều khó khăn trong đảm bảo yêu cầu chuyên môn.
Cần vận động xã hội ủng hộ tăng chi cho y tế
Thảo luận về tài chính y tế, TS. Nguyễn Văn Tiên khẳng định, tài chính y tế chính là xương sống để đảm bảo hoạt động của ngành y tế. Lập luận về điều này, TS. Tiên chỉ rõ: nếu chỉ có đơn thuần nguồn nhân lực mà không được đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, trang thiết bị đồng bộ thì ngành y tế cũng chưa thể hoàn thành được nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân mà còn cần phải được thường xuyên, không ngừng đầu tư tài chính mới có thể đảm bảo hoạt động của ngành. TS. Nguyễn Văn Tiên cho rằng: tỷ lệ ngân sách chi cho y tế nước ta hiện nay mặc dù đã tăng nhưng vẫn ở mức thấp (ở Việt Nam với mức trung bình là 50 USD/người trong khi ở Canada là 2.650 USD/người). Do đó, ngành y tế cần vận động xã hội ủng hộ tăng chi cho y tế kết hợp ban hành cơ chế hợp lý về tự chủ tài chính, phí dịch vụ y tế, xã hội hóa y tế... Riêng đối với chính sách BHYT, TS. Nguyễn Văn Tiên nhấn mạnh: ngành y tế cần phối hợp với các cơ quan liên quan kiên trì thực hiện chính sách BHYT toàn dân. Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội sẽ luôn đồng hành cùng ngành y tế trong quá trình triển khai thực hiện chính sách BHYT để cùng tháo gỡ.
Đồng tình với quan điểm này, GS. TSKH. Phạm Mạnh Hùng bổ sung thêm: Cần tăng cường nhận thức của các nhà lãnh đạo các cấp về vai trò và nội dung của cơ chế tài chính trong hoạch định chiến lược y tế. Điều này có ý nghĩa quyết định trong xây dựng một nền y tế hoạt động trong cơ chế thị trường mà vẫn đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phát triển nhanh và vững chắc BHYT, coi đây là nguồn thu chính thay thế cho thu viện phí…
Về việc triển khai thực hiện tự chủ tài chính (TCTC) BV, tại hội nghị PGS.TS Phạm Lê Tuấn- Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính, Bộ Y tế cho biết, từ năm 2000 đến nay, các BV đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ về cơ chế tài chính qua việc triển khai thực hiện các chủ trương xã hội hóa và TCTC. Hiện nay gần 100% BV tuyến TW và 70% tuyến tỉnh, huyện đang thực hiện TCTC. Tính đến năm 2008, các BV đã huy động được khoảng 3.000 tỷ đồng để triển khai các kỹ thuật cao. Nguồn vốn quan trọng này đã góp phần đổi mới trang thiết bị y tế, đặc biệt là các trang thiết bị kỹ thuật cao, đồng thời góp phần cải thiện quản lý chuyên môn và nhân lực, tăng thêm thu nhập cho cán bộ…
Góp ý kiến xây dựng cơ chế tài chính y tế công bằng, hiệu quả
Bên lề hội nghị Khoa học kinh tế y tế lần thứ nhất, góp ý kiến để xây dựng một cơ chế tài chính y tế công bằng hiệu quả, hiệu quả và bền vững, phóng viên báo SK & ĐS đã trao đổi với một số chuyên gia kinh tế, lãnh đạo các BV về những vấn đề liên quan …
TS. Kinh tế học Nguyễn Quang A: Cần tạo ra hành lang pháp lý để thu hút đầu tư cho y tế
Đối với ngành y tế việc tiếp cận kinh tế học là để áp dụng những biện pháp, kỹ thuật của kinh tế học nhằm nghiên cứu về những mối quan hệ kinh tế trong cung ứng dịch vụ y tế. Điều này có nghĩa là phải coi BV như nhà cung ứng dịch vụ KCB, còn bệnh nhân đóng vai trò là khách hàng. Mối quan hệ cung cầu này đòi hỏi BV phải hoạt động như một doanh nghiệp nhưng lại không được chú trọng đến mục tiêu lợi nhuận mà phải đặt vấn đề bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người dân lên hàng đầu. Khi mọi hoạt động của BV được coi như một doanh nghiệp thực thụ thì bộ máy quản lý BV phải năng động, sáng tạo và tìm cách để thu hút bệnh nhân. Theo đó, các BV hay còn gọi là nhà cung cấp dịch vụ sẽ có sự cạnh tranh trong nâng cao chất lượng KCB và người hưởng lợi sẽ là người bệnh. Tuy nhiên, muốn làm được điều này nhà nước cần tạo ra hành lang pháp lý để huy động nguồn lực đầu tư cho ngành y tế nói chung và BV nói riêng phát triển cả về chất và lượng.
PGS.TS. Nguyễn Thành Trung- GĐ BVĐK TW Thái Nguyên: Cần hướng đến tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế kể cả BHYT
Hoạt động của BV công nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ KCB thuận lợi nhất, tốt nhất cho người dân. Tuy nhiên, BV muốn làm được điều này cần phải có nguồn lực. Vậy nguồn lực ở đâu? Ví dụ ngay từ BVĐK TW Thái Nguyên cho thấy, hiện nay nguồn đầu tư của nhà nước cho BV mới đáp ứng được 30% nhu cầu hoạt động của BV, nhưng cũng chỉ dành để chi trả lương cho cán bộ, thầy thuốc, còn mọi việc như xây dựng cơ bản, đầu tư, nâng cấp, sửa chữa trang thiết bị… phải nhờ những nguồn tài chính khác. Để có nguồn lực hoạt động, BV đã phải không ngừng nâng cao chất lượng KCB nhằm thu hút người bệnh bằng việc ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật cao, thay đổi tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh... Do đó, ngoài đầu tư của nhà nước thì đổi mới cơ chế tài chính y tế theo hướng tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế kể cả BHYT là giải pháp tốt nhất để đảm bảo nguồn lực tài chính cho hoạt động y tế.
BS. Lê Tất Hải- GĐ BV Nhi Thanh Hóa: Triển khai kỹ thuật cao ở tuyến dưới cũng là giải pháp làm kinh tế y tế
BV Nhi Thanh Hóa hiện đã triển khai thành công và làm chủ hoàn toàn kỹ thuật phẫu thuật tim hở, can thiệp tim mạch, điều trị các bệnh tim bẩm sinh (thông liên nhĩ, thông liên thất, chít hẹp van động mạch phổi…). Đã có 350 bệnh nhân được phẫu thuật và can thiệp các bệnh này. Qua khảo sát thực tế, nếu 350 bệnh nhân này đến khám và phẫu thuật tại các cơ sở KCB ở Hà Nội thì chi phí về tàu xe đi lại, ăn uống, thuê chỗ nghỉ… sẽ hết khoảng hơn 3 tỷ đồng. Tuy nhiên, khi được phẫu thuật và điều trị ngay tại địa phương, những khoản chi phí này người dân phải chi trả ít hơn rất nhiều mà vẫn được đảm bảo chăm sóc sức khỏe tốt. Điều này cho thấy, việc triển khai thành công các kỹ thuật cao ngay tại tuyến dưới đã góp phần mang lại lợi ích kinh tế y tế thể hiện qua các yếu tố: Giảm chi phí cho người bệnh, giảm thời gian chờ đợi và gánh nặng chi phí cho gia đình người bệnh, góp phần cứu sống kịp thời cho nhiều bệnh nhân bị bệnh nặng… và giảm tải cho BV tuyến trên.
Phẫu thuật thành công cho bệnh nhi 10 tháng tuổi bị bất thường động mạch vành
BV Nhi đồng 1 vừa phẫu thuật thành công một trường hợp bất thường động mạch vành hiếm gặp. Đó là trường hợp của cháu N.Q.V., 10 tháng tuổi, nhà ở tỉnh Đăk Lăk. Một tháng trước, cháu được phát hiện bị mắc phải hội chứng bất thường động mạch vành trái xuất phát từ động mạch phổi (gọi tắt là ALCAPA). Biểu hiện bệnh là cháu thường xuyên bị viêm phổi tái đi tái lại và nhập viện với triệu chứng của suy tim trái, hở van hai lá nặng. Sau khi siêu âm tại Khoa Tim mạch, cháu được chụp MSCT 64 lát và chẩn đoán xác định bệnh. Các bác sĩ phẫu thuật đã đưa động mạch vành trái nối với động mạch chủ. Sau mổ 2 ngày, hiện cháu đã ổn, cai máy thở và tình trạng tim mạch ổn định.
Được biết, hội chứng ALCAPA tần suất bệnh rất hiếm gặp, chỉ chiếm 0,25 - 0,5% tổng số các bệnh tim. Nếu không điều trị, 90% trẻ tử vong trong năm đầu tiên do thiếu máu cơ tim và hở van hai lá gây ra suy tim.
100 ca đục thủy tinh thể được phẫu thuật miễn phí
Sáng 7/12/2010, Bệnh viện Mắt TW phối hợp với Sở Y tế Thanh Hóa tổ chức chương trình phẫu thuật mổ mắt miễn phí cho bệnh nhân nghèo huyện Quảng Xương. 100 ca đục thủy tinh thể bằng kỹ thuật cao sẽ được phẫu thuật. Các ca phẫu thuật do các bác sĩ Bệnh viện Mắt TW trực tiếp thực hiện. Ở Việt Nam, hiện có khoảng 2 triệu người bị mù và hàng triệu người có thị lực kém, trong đó 1/3 người nghèo không có tiền để điều trị. Ngành mắt Việt Nam đang phấn đấu giảm tỷ lên mù lòa xuống dưới 0,3 dân số vào năm 2020.
Gia đình & Xã hội
TPHCM: Phát hiện 2 bệnh nhi dương tính với phẩy khuẩn tả
Ngày 8/12, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TPHCM cho biết vừa tiếp nhận 2 trường hợp mắc tả là 2 bé trai song sinh, 26 tháng tuổi, ngụ ở xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh. Bệnh nhi nhập viện ngày 6/12 trong tình trạng huyết áp thấp, trụy mạch, tiêu chảy, mắt lõm sâu, nôn ói...
Đến ngày 7/12, kết quả xét nghiệm tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới xác định 2 bệnh nhi dương tính với phẩy khuẩn tả. Hiện tình trạng 2 bệnh nhi đã ổn định, tiếp tục theo dõi.
Xác định nhu cầu để nâng hiệu quả
Sau 2 năm thực hiện Đề án 1816, các kỹ thuật được chuyển giao đã đạt hiệu quả rõ rệt, người dân Yên Bái được tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng cao ngay tại quê hương mình.
BS Đàm Minh Hiền, Phó Giám đốc BVĐK Yên Bái cho biết, sau 2 năm thực hiện Đề án 1816, các kỹ thuật được chuyển giao đã đạt hiệu quả rõ rệt, người dân Yên Bái được tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng cao ngay tại quê hương mình...
Giảm tải tuyến trên
Trong cuộc họp tổng kết 1 năm thực hiện Đề án 1816, bà Phạm Thị Thanh Trà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái nhận xét: Đề án 1816 ở Yên Bái đã thành công về chính trị, tư tưởng, xã hội sâu sắc, giải quyết vấn đề cấp bách trước mắt là thiếu, yếu về nhân lực của tuyến dưới, giảm tải tuyến trên, hướng tới xây dựng nền y tế công bằng vì dân, tạo sự thống nhất đồng thuận cao của toàn ngành y tế. Từ khi có bác sĩ tuyến trên về, người dân không phải đi xa mà được chữa bệnh ngay trên quê hương mình. Bác sĩ tuyến dưới đã học được cách làm việc khẩn trương, kịp thời và hiệu quả hơn...
PGS.TS Trịnh Hồng Sơn, Phó Giám đốc BV Việt Đức cho biết, đơn vị này đã đào tạo và chuyển giao kỹ thuật cho các bác sĩ khoa Chấn thương chỉnh hình, khoa Ngoại, khoa Phẫu thuật và gây mê của BVĐK Yên Bái về các lĩnh vực: Phẫu thuật ghép xương chỉnh hình, phẫu thuật nội soi gan mật, các phương pháp gây mê trong phẫu thuật sọ não, phẫu thuật nội soi.
BV Răng – Hàm – Mặt TƯ đã chuyển giao kỹ thuật phẫu thuật hàm mặt, đồng thời hỗ trợ nhiều trang thiết bị cho khoa Răng – Hàm – Mặt, đảm bảo đủ trang thiết bị thiết yếu để phục vụ người bệnh. BV Mắt TƯ chuyển giao kỹ thuật phẫu thuật Phaco, nhãn nhi và nhiều kỹ thuật khác.
Các bác sĩ của các BV đầu ngành trong lĩnh vực tiêu hóa, tiết niệu, hô hấp tim mạch, ung bướu đã giúp các bác sĩ nội khoa tuyến tỉnh được cập nhật và bổ sung những kiến thức mới trong điều trị. Các kỹ sư về trang thiết bị tuyến trên đã sửa chữa và bảo dưỡng hơn 40 trang thiết bị y tế, tiết kiệm cho bệnh viện hàng chục triệu đồng. Đồng thời, hướng dẫn bảo dưỡng thiết bị cho kỹ sư, kỹ thuật viên Phòng Vật tư thiết bị y tế của BVĐK Yên Bái.
Cán bộ luân phiên có trình độ chuyên môn cao
Theo BS Đàm Minh Hiền, những cán bộ luân phiên từ tuyến trên về với Yên Bái đều là những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tác phong làm việc khoa học, tận tâm với nghề. Sau 2 năm thực hiện Đề án, các kỹ thuật được chuyển giao cho BVĐK Yên Bái đã đạt hiệu quả rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân trong tỉnh. Nhiều căn bệnh trước đây phải chuyển tuyến, nay đã điều trị thành công tại Yên Bái như: Nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, sốc tim trong nhồi máu cơ tim, phẫu thuật nội soi gan mật, phẫu thuật gãy xương hàm mặt, phẫu thuật Phaco, phẫu thuật nội soi tai mũi họng, truyền hóa chất cho bệnh nhân ung thư...
Nhờ có Đề án 1816 mà y tế tỉnh Yên Bái có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác chuyên môn cũng như công tác tổ chức thực hiện. BS. Đàm Minh Hiền cho rằng, để có được những thành công đó là nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các BV Trung ương và Sở Y tế tỉnh. Từ đó xác định đúng nhu cầu cần thiết đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, tránh được tình trạng làm thay và không có việc để làm.
BVĐK Yên Bái cũng đã tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ luân phiên yên tâm công tác trong thời gian tăng cường tại cơ sở. Cả bên nhận cũng như bên giao luôn có sự hợp tác, tôn trọng, học hỏi, đoàn kết giúp đỡ nhau đạt được hiệu quả công việc cao nhất.
BS Đàm Minh Hiền cho biết, trong 2 năm thực hiện Đề án 1816, đã có 71 lớp tập huấn, với 1.946 cán bộ được đào tạo lại. Đặc biệt, BVĐK Yên Bái đã được chuyển giao 110 kỹ thuật, tiếp nhận 37 bác sĩ và điều dưỡng. Trong đó, có 24 bác sĩ, điều dưỡng của BV Bạch Mai; 6 bác sĩ, điều dưỡng của BV Việt Đức; 4 bác sĩ của BV Răng - Hàm - Mặt TƯ; 3 bác sĩ, điều dưỡng của Viện Mắt TƯ.
An ninh thủ đô
Gần 40% người dân thiếu mặn mà với bảo hiểm y tế
Tính đến thời điểm này, trên cả nước có khoảng 53 triệu lượt người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ gần 62% dân số. Tuy nhiên theo các chuyên gia, việc vận động được gần 40% đối tượng còn lại tham gia BHYT sẽ khó khăn bội phần.
Hỗ trợ hết mới tham gia
Báo cáo của Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam cho thấy, sau hơn 1 năm triển khai Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), số người tham gia BHYT đã tăng nhanh chóng ở tất cả các khu vực, đối tượng. Số thu BHYT dự kiến sẽ đạt hơn 26,2 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 2009, bảo đảm cân đối thu, chi quỹ BHYT và bù đắp phần bội chi của những năm trước.
Tuy vậy, theo nhận định, sự ổn định này mới là tạm thời vì còn chưa mở hết phạm vi quyền lợi theo luật định, chưa thực hiện thanh toán chi phí sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh được quỹ BHYT thanh toán. Một số giá dịch vụ mà BHYT thanh toán còn quá thấp, dựa trên bảng giá ban hành từ năm 1995, chưa được điều chỉnh.
Mặt khác, số người tham gia BHYT tăng đáng kể, song chủ yếu rơi vào các nhóm được hỗ trợ, còn nhóm tham gia tự nguyện, số người lao động tham gia BHYT không tăng bao nhiêu so với trước khi có luật. Ông Nghiêm Trần Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ BHYT - Bộ Y tế cho biết, số người tham gia BHYT năm 2009-2010 tăng chủ yếu là do đưa nhóm trẻ dưới 6 tuổi sang thực hiện BHYT với sự hỗ trợ toàn phần của ngân sách Nhà nước và các nhóm khác được ngân sách Nhà nước bao cấp toàn bộ như người nghèo, đối tượng chính sách xã hội.
Số những người tham gia BHYT tự nguyện rất thấp và chủ yếu rơi vào những trường hợp thường xuyên đau ốm, hoặc có nguy cơ bệnh tật. Vấn đề đáng quan tâm nữa là hiện mới chỉ có 50% đối tượng thuộc khu vực doanh nghiệp tham gia BHYT, thậm chí ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ đạt 30%.
Theo ông Dũng, các doanh nghiệp có nhiều cách để không đóng BHYT cho người lao động như khai báo số lao động thấp hơn thực tế, ghi số tiền lương thấp hơn thu nhập thực tế hoặc chỉ ghi mức lương tối thiểu trong hợp đồng lao động, đấy là chưa kể tình trạng nợ kéo dài hay chiếm dụng số tiền mà người lao động đã đóng BHXH, BHYT.
Trong khi đó, đây chính là nhóm người khỏe mạnh nhất, mức đóng BHYT cao, tần suất sử dụng dịch vụ thấp và về lý thuyết có thể chia sẻ, bù đắp cho các nhóm khác theo đúng bản chất nhân văn của việc tham gia BHYT. Thậm chí, ngay cả những nhóm đối tượng được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng BHYT cũng không tham gia đầy đủ.
Quyền lợi chưa được đáp ứng
Ông Nguyễn Minh Thảo, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam cho biết, theo lộ trình đến năm 2014, tất cả các nhóm dân số sẽ phải bắt buộc tham gia BHYT (BHYT toàn dân), nhưng với tiến trình triển khai như hiện nay thì mục tiêu này là rất khó hoàn thành. Gần 40% dân số còn lại hiện chưa tham gia BHYT chính là những đối tượng khó vận động nhất.
Ông Thảo lấy ví dụ, với nhóm người cận nghèo, nhiều tỉnh/thành phố đã quyết định hỗ trợ phí tham gia BHYT cao hơn so với quy định của luật, thậm chí các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long hỗ trợ tới 80% mức đóng, các tỉnh Bắc bộ hỗ trợ tới 90% mức đóng nếu tất cả các thành viên của hộ gia đình đều tham gia… nhưng người ta vẫn thờ ơ.
Lý do quan trọng nhất dẫn đến tình trạng này, theo ông Thảo, chính là do khả năng cung ứng và chất lượng dịch vụ cho người bệnh BHYT còn hạn chế, quyền lợi của người tham gia BHYT chưa cao. Chẳng hạn, trên cả nước hiện nay có đến 3.500 cơ sở y tế tư nhân nhưng BHYT chỉ liên kết được gần 300 cơ sở.
Không những tỷ lệ cơ sở y tế tư nhân có thanh toán BHYT rất nhỏ như vậy mà dịch vụ bệnh nhân BHYT được sử dụng ở các cơ sở này cũng không nhiều. Với các cơ sở y tế công lập, sau hơn 1 năm triển khai Luật BHYT nhưng đến nay, rất nhiều bệnh nhân BHYT vẫn gặp khó khăn trong thụ hưởng quyền lợi, nhất là những bệnh nhân phải cùng chi trả (5-20%), đặc biệt những đối tượng bị suy thận mạn tính, những đối tượng bị tai nạn giao thông…
Vụ BHYT - Bộ Y tế chỉ ra một nguyên nhân khác về năng lực tổ chức thực hiện của hệ thống BHXH. Theo đó, hệ thống BHXH hiện chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự gia tăng đối tượng tham gia BHYT do hạn chế về số lượng cán bộ và năng lực. Điều này ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động, từ việc khai thác đối tượng, thu phí, cấp thẻ, theo dõi, giám sát chất lượng khám chữa bệnh, thanh toán chi phí khám chữa bệnh đến công tác thống kê, báo cáo…
Để cải thiện tình trạng này, bà Tống Thị Song Hương, Vụ trưởng Vụ BHYT, trong thời gian tới Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan sẽ tiếp tục xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BHYT, tiếp tục nghiên cứu mở rộng áp dụng cơ chế thanh toán theo định suất và ca bệnh đồng thời điều chỉnh các nhóm đối tượng tham gia BHYT.
Hà Nội mới, Lao động Cuối tuần
Giải bài toán cơ chế tài chính
2010 là năm hoạt động khoa học, công nghệ (KHCN) nước nhà có nhiều khởi sắc và tạo tiền đề cho sự phát triển trong những năm tới. Một loạt các quyết sách, đề tài khởi động cách đây vài năm đã cho "quả ngọt". Những chính sách mới dần đi vào cuộc sống cũng góp phần nâng cao vị thế KHCN nước nhà.
Những điểm sáng
Ngày 17//2010 là mốc son đánh dấu sự phát triển của y học nước nhà khi ca ghép tim từ người chết não cho bệnh nhân Bùi Văn Nam, 48 tuổi (Nam Định) bị bệnh cơ tim thể giãn, suy tim độ 4 được các chuyên gia của Học viện Quân y (HVQY) thực hiện thành công. Cần biết rằng, ghép tạng từ người chết não là kỹ thuật phức tạp hơn nhiều so với ghép từ người hiến tặng hoàn toàn khỏe mạnh.
Đánh giá về thành công này, GS.TS Nguyễn Tiến Bình, Giám đốc HVQY cho biết: KHCN có vai trò "tiền đề", không chỉ với ca ghép tim này mà cả với những thành công về ghép tạng đầu tiên tại Việt Nam. Cụ thể là từ năm 1990, được sự ủng hộ của Bộ KHCN, đề tài ghép thận được triển khai. Ngày 4/6/1992, ca ghép thận đầu tiên đã thành công và hai năm sau, vấn đề ghép thận cơ bản đã được giải quyết, trở thành một phẫu thuật thường quy. Từ một trung tâm ghép ban đầu ở HVQY, đến nay, cả nước có 12 bệnh viện tiến hành ghép thận, cứu sống gần 300 bệnh nhân. Tiếp đến, trên cơ sở thực hiện đề tài độc lập cấp Nhà nước về ghép gan do HVQY chủ trì, ca ghép gan trên người đầu tiên đã thực hiện thành công ngày 31/1/2004. Hiện nay, trên cả nước đã có 4 bệnh viện tiến hành ghép gan và đã thực hiện ghép thành công cho 14 bệnh nhân... Mặc dù chậm hơn so với thế giới khoảng nửa thế kỷ, nhưng với những thành công nêu trên, Việt Nam đã đạt thành tựu đáng tự hào…
“Vướng” cơ chế tài chính
Bên cạnh những "điểm sáng", KHCN nước nhà năm qua cũng đứng trước không ít thách thức, trong đó vấn đề cơ chế tài chính là bài toán "biết rồi, khổ lắm, nói mãi" nhưng chưa bao giờ được giải quyết thỏa đáng. Nhận định này được không ít nhà quản lý, nhà khoa học đưa ra tại Hội nghị đánh giá kết quả hoạt động KHCN giai đoạn 2006-2010 tổ chức gần đây.
Theo Bộ KHCN, giai đoạn 2006-2010, Nhà nước duy trì mức đầu tư hằng năm cho hoạt động KHCN đạt 2% tổng chi ngân sách nhà nước (tương đương 0,5-0,6% GDP). Đến nay, ngân sách nhà nước vẫn là nguồn đầu tư chính, chiếm tới 65-70% tổng đầu tư của toàn xã hội cho hoạt động KHCN. Trong điều kiện quy mô và trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp, mức đầu tư của toàn xã hội cho hoạt động KHCN của Việt Nam hiện nay ước tính đạt khoảng 1% GDP, quá nhỏ so với các nước trong khu vực và thế giới.
Về phía các nhà khoa học, GS.TS Lê Hữu Nghĩa (Chủ nhiệm Chương trình KX02) cho rằng, những năm qua, giá cả thị trường tăng vọt nhưng các định mức kinh phí nghiên cứu không hề thay đổi. Hơn nữa, có quy định ngay từ đầu đã bất hợp lý như trả 12 triệu đồng cho người viết báo cáo khoa học tổng hợp đề tài, trong lúc đó trả cho người viết chuyên đề loại hai trong lĩnh vực KHXH&NV cũng với số tiền tương đương.
GS.TSKH Thân Đức Hiền (Chủ nhiệm Chương trình KC02) bổ sung, các quy định về mua sắm vật tư, nguyên vật liệu phục vụ nghiên cứu như hiện nay còn nhiều bất cập. Quy định về đấu thầu đối với vật tư hóa chất rất khó thực hiện, gây lãng phí về thời gian, vật chất do ở nước ta, hầu như không có đơn vị nào cung cấp được đầy đủ các loại hóa chất khi gói thầu lên tới vài trăm triệu đồng...
Rõ ràng, việc đổi mới cơ chế tài chính, tạo điều kiện để đội ngũ trí thức được tham gia nhiều, hiệu quả hơn vào hoạt động KHCN đang cấp thiết hơn bao giờ hết. Lời giải cho bài toán ấy đang dành cho các nhà quản lý trong năm 2011.
Hà Nội mới, Gia đình & Xã hội
Phẫu thuật nhân đạo 200 ca đục thủy tinh thể
Trong một tuần (từ ngày 1 đến 9/12), các bác sỹ của Bệnh viện Mắt TƯ đã phẫu thuật nhân đạo 200 ca đục thủy tinh thể bằng kỹ thuật cao cho các đối tượng người nghèo, gia đình chính sách của huyện Quảng Xương (Thanh Hóa) và huyện Vũ Quang (Hà Tĩnh) với kinh phí khoảng 400 triệu đồng do Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel tài trợ.
Trong 3 năm qua, đoàn phẫu thuật lưu động của bệnh viện đã phẫu thuật mang lại ánh sáng cho gần 5.000 người mù nghèo tại nhiều địa phương từ nguồn tài trợ của các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước. Thông qua các hoạt động phẫu thuật trên xe chuyên dụng, các bác sỹ còn chuyển giao được nhiều kỹ thuật mới và nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ nhãn khoa tuyến dưới; tuyên truyền cho người dân cách chăm sóc, bảo vệ mắt an toàn.
Hà Nội mới
Hơn 1.100 phụ nữ được tầm soát phát hiện ung thư sớm
Hơn 1.100 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở 4 xã Tân Dân, Quang Tiến, Thanh Xuân và Minh Trí của huyện Sóc Sơn vừa được Trung tâm Y tế huyện (TTYT) cung cấp dịch vụ khám sàng lọc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung bằng phương pháp quan sát trực tiếp với acid acetic dưới sự hỗ trợ của Tổ chức Marie Stopes tại Việt Nam.
Qua hoạt động tầm soát này đã phát hiện 66 ca có dấu hiệu nguy cơ cao liên quan đến ung thư cổ tử cung và được giới thiệu đến cơ sở y tế tuyến trên để khám, điều trị bệnh kịp thời.
Bên cạnh việc cung cấp dịch vụ tầm soát ung thư, TTYT còn tổ chức các buổi khám phụ khoa, đặt vòng miễn phí cho chị em; tư vấn trực tiếp các vấn đề về sức khỏe sinh sản như phá thai an toàn, uống thuốc tránh thai, vệ sinh phụ nữ…
Tuổi trẻ
Sử dụng test chẩn đoán mới cho bệnh lao
Trao đổi với Tuổi Trẻ hôm qua 9/12 bên lề hội nghị vận động tài trợ cho điều trị lao ở VN 2011-2015, giám đốc Bệnh viện Lao và bệnh phổi T.Ư Đinh Ngọc Sỹ cho biết từ năm 2011, Chương trình phòng chống lao quốc gia sẽ sử dụng loại test phát hiện bệnh lao và lao đa kháng thuốc mới tại các labo quốc gia.
Đây là loại test có độ đặc hiệu và thời gian phát hiện ngắn nhất hiện nay với độ chính xác 95%, trong khi phương pháp đang áp dụng chỉ có độ chính xác 60%.
Theo ông Sỹ, các điều tra mới nhất cho thấy gánh nặng bệnh lao ở VN cao hơn nhiều so với ước tính của Tổ chức Y tế thế giới. VN đứng thứ 12/22 nước có gánh nặng bệnh lao cao nhất thế giới. Tỉ lệ bệnh nhân lao đa kháng thuốc khoảng 2,7%/tổng số bệnh nhân lao đang điều trị, tương đương 6.000 bệnh nhân lao đang kháng thuốc mới/năm.
Giai đoạn 2011-2015, VN cần 340 triệu USD để giảm 50% số mắc lao mới so với năm 2000, đồng thời khống chế tỉ lệ bệnh nhân lao đa kháng thuốc tương đương năm 2010.
Tiền Phong
Ninh Bình - Thêm 2 người tử vong vì lien cầu lợn
Theo Sở Y tế Ninh Bình, vào đầu tháng 12, tại Ninh Bình đã xuất hiện thêm 2 trường hợp tử vong có các biểu hiện liên quân đến triệu chứngcủa bệnh lien cầu lợn… như suy hô hấp, suy thận, suy gan và xuất huyết từng mảng vùng bụng, vùng bẹn, sốt cao khi đến viện và đã tử vong. Cả 2 bệnh nhân này đều làm nghề giết mổ lợn. Nguồn lợn được mua từ nhiều nơi không rõ nguồn gốc và cả hai trường hợp đều có ăn tiết canh, những sản phẩm được chế biến từ thịt lợn chưa chín.
Ngăn bệnh tả quay trở lại
Viện Pasterur TP.HCM hôm qua 9/12 cho biết, đã có báo cáo nhanh gửi Bộ Y tế về 3 bệnh nhi cùng một gia đình tại huyện Bình Chánh, TP.HCM mắc tả khiến một trẻ tử vong. Đồng thời triển khai một số biện pháp khẩn cấp nhằm phòng chống căn bệnh này có thể quay trở lại TP.HCM trong thời gian tới. Theo Sở Y tế TP.HCM, 3 trẻ này cư ngụ ở ấp 1, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, là khu lao động với khoảng 100 hộ dân sinh sống. Gia đình 3 bệnh nhi này đi cầu tiêu chế dọc mé kênh nước thông ra song nên nguy cơ phẩy khuẩn tả có thể phát tán ra song là rất lớn…
Có thể ngăn HIV từ mẹ sang con
Mỗi năm Việt Nam có gần 6.000 sản phụ có HIV sinh con nhưng không nhiều người trong số đó biết cách phòng tránh nguy cơ lây nhiễm sang con.
Những năm qua, nhờ sự tiến bộ của y học hiện đại, nhiều người có HIV vẫn sống khỏe mạnh, cả về tinh thần lẫn thể xác. Tuy nhiên, không phải bệnh nhân nào cũng có cơ hội tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản để cho ra đời những đứa trẻ bình thường.
TS Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, theo chu kỳ phát triển, thai nhi lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng của rau thai, lấy chất dinh dưỡng từ máu của mẹ. Trẻ có thể lây nhiễm HIV từ mẹ trong thời kỳ còn là bào thai, trong quá trình chuyển dạ đẻ hoặc trong thời gian cho con bú.
Với phụ nữ có HIV mang thai, nếu được uống thuốc theo phác đồ điều trị sớm, có thể bảo đảm hiệu quả tối ưu trong việc giảm tỉ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con. Phụ nữ có HIV mang thai không được dừng điều trị thuốc ARV vì sẽ dẫn tới tình trạng suy giảm miễn dịch, gây nguy cơ kháng thuốc và làm tăng nguy cơ lây truyền HIV cho con.
Các nghiên cứu cho thấy, khi điều trị dự phòng bằng thuốc ARV, sinh nở an và nuôi con an toàn, nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con chỉ còn 2%. Nhưng nếu không có các can thiệp giảm thiểu lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, nguy cơ mẹ lây truyền HIV sang con có thể từ 20 đến 45%.
Các bác sĩ khuyến cáo trong quá trình mang thai, sản phụ cần đi khám thai định kỳ và không được vì sợ bị kì thị mà giấu bác sĩ tình trạng có HIV. Cần tìm kiếm sự can thiệp của bác sĩ và chủ động giành lấy cơ hội cho con mình thoát khỏi căn bệnh thế kỷ.
Số phụ nữ mang thai nhiễm HIV được điều trị dự phòng bằng thuốc kháng virus (ARV) tăng đáng kể. Năm 2009 có 1.372 phụ nữ mang thai nhiễm HIV được dự phòng lây truyền từ mẹ sang con bằng thuốc ARV, tăng 2,8 lần so với năm 2006.
Gia tăng trẻ em và phụ nữ mang thai nhiễm HIV
TS. Lưu Thị Hồng, Vụ Sức khỏe bà mẹ trẻ em, Bộ Y tế cho biết, mỗi năm Việt Nam có khoảng 5.600 bà mẹ mang thai nhiễm HIV.
Với tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con là 35%, trung bình mỗi năm sẽ có khoảng 1.900 trẻ sơ sinh nhiễm HIV từ mẹ. Theo báo cáo giám sát trọng điểm hằng năm, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ mang thai toàn quốc tăng gần 20 lần từ năm 1994 đến năm 2005.
TS Hồng cảnh báo có khoảng 4.800 phụ nữ có thai nhiễm HIV vào năm 2012. Theo đó, số trẻ em trong độ tuổi từ 0-14 tuổi nhiễm HIV từ mẹ sang con cũng tăng lên. Vào năm 2010 theo dự báo có khoảng 5.100 trẻ.
Theo ông Nguyễn Trọng An- Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em- Bộ LĐTB&XH, đến hết năm 2009 cả nước phát hiện 4.121 trẻ em bị nhiễm HIV, 6 tháng đầu năm 2010 đã phát hiện thêm 312 trẻ bị nhiễm.
Hà Nội chưa xét miễn phí trông xe tại bệnh viện
“Thành phố Đà Nẵng đã quyết định miễn phí trông xe tại các bệnh viện, vậy Thủ đô Hà Nội có làm như vậy không?”, trước câu hỏi này của phóng viên Tiền Phong, ông Lê Anh Tuấn, Giám đốc Sở Y tế và ông Phí Vân Tuấn, Cục trưởng Cục thuế cho hay, hiện giờ, thành phố Hà Nội chưa xét miễn phí trông xe tại các bệnh viện.
Lý do, theo Giám đốc Sở Y tế, mỗi địa phương có những đặc điểm kinh tế, xã hội khác nhau. Hà Nội có nhiều bệnh viện Trung ương, lượng bệnh nhân rất lớn, nên số xe gửi cũng lớn. Tuy nhiên, ông Lê Anh Tuấn cũng khẳng định, bệnh viện thu quá quy định phí trông xe, giám đốc bệnh viện phải chịu trách nhiệm.