Trong tháng 5/2009, Đoàn chuyên gia giám sát kỹ thuật Dự án Quỹ toàn cầu đã đến làm việc tại Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương và khảo sát một số tỉnh đại diện để xem xét đề xuất “Chiến lược quốc gia” (NSAs_National Strategy Applications) của Việt Nam; sau khi kết thúc đợt làm việc Đoàn đã có một số đánh giá về những điểm mạnh và điểm yếu trong Chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét ở Việt Nam để giúp hoàn thiện cơ sở Đề án xin Quỹ toàn cầu tiếp tục tài trợ vào cuối năm 2009.
Trước khi tổ chức cuộc họp đánh giá với sự có mặt của Bộ Y tế, Đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, GS.TS. Phạm Song-Chuyên gia về bệnh truyền nhiễm cùng Lãnh đạo các Viện Sốt-rét-Ký sinh trùng-Côn trùng vào ngày 29/5/2009; Đoàn chuyên gia giám sát kỹ thuật dự án Quỹ toàn cầu đã dành một tuần làm việc với Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, thăm các cơ quan liên quan đến Chương trình phòng chống sốt rét (Bộ Y tế, Bộ Tài Chính, Bộ Kế hoạch đầu tư), khảo sát tại một số tỉnh đại diện (Khánh Hòa, Bình Phước) và có một cuộc họp nội bộ của Đoàn đánh giá.
Tại phiên họp cuối cùng, Đoàn chuyên gia giám sát đánh giá cao những nỗ lực của phía Việt Nam trong giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ chết sốt rét, tuy nhiên việc hướng tới loại trừ sốt rét còn nhiều khó khăn do khó tiếp cận với các nhóm dân di biến động; chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét ở Việt Nam chưa rõ ràng cần được bổ sung hoàn chỉnh để kịp thời đề xuất với Quỹ toàn cầu trước tháng 11/2009. Báo cáo đánh giá của Đoàn giám sát nêu rõ những điểm mạnh và điểm yếu trong Chiến lược phòng chống sốt rét quốc gia ở Việt Nam.
Nhận xét chung
Những năm qua, Việt nam đã thực hiện thành công các biện pháp phòng và chống sốt rét ở nhiều nơi trên cả nước, với tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét giảm đáng kể. Tuy nhiên, thách thức quan trọng và cũng là vấn đề khó khăn nhất hiện nay là làm sao để giữ vững những thành quả đạt được ở những lĩnh vực chuyên môn như giám sát, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời cũng như khống chế mức độ lan truyền của sốt rét tại những khu vực thường xuyên xảy ra di biến động, giao lưu biên giới, những nơi khó tiếp cận với các dịch vụ y tế khi hệ thống y tế cơ sở ở đây thường thiếu và yếu. Trong bối cảnh đó, chiến lược phòng chống sốt rét quốc gia lại chưa có biện pháp hiệu quả nào để giải quyết những tồn tại trên do không thu thập đủ những thông tin hữu ích và cập nhật, vốn là điều kiện đầu tiên của một chiến lược phòng chống sốt rét có chất lượng.
Phân tích tình hình và hoạt động theo chương trình
Các báo cáo đã miêu tả bức tranh tổng thể về tình hình dịch bệnh, kết quả các chương trình sức khoẻ cũng như khuynh hướng bệnh tật ở những vùng miền khác nhau và do đó, đưa ra các hoạt động ưu tiên cho từng vùng. Hơn nữa, các biện pháp can thiệp chiến lược đã được nêu rõ cùng với kết quả mong đợi, phù hợp với mục tiêu toàn cầu. Một điểm mạnh khác của chiến lược phòng chống sốt rét quốc gia là đã vận dụng việc phân tích và nhận định tình hình để xác định những khó khăn, thử thách trong thực hiện chương trình, và do đó rút ra những bài học kinh nghiệm; vì thế các chiến lược can thiệp theo hoạch định được thực hiện mang tính khả thi cao và phù hợp với tình hình địa phương;
Tuy nhiên, nội dung của phần này cũng có một vài tồn tại. Thứ nhất, mục tiêu chung thứ hai và 2 mục tiêu cụ thể đầu tiên nên được gộp chung và đặt thành mục tiêu của Chiến lược phòng chống sốt rét quốc gia; các mục tiêu khác cần được nêu rõ ràng và cụ thể hơn. Thứ hai, các vấn đề kinh tế, văn hoá, giới, chính sách chưa được đề cập cụ thể cũng như về tổ chức hoạt động của chiến lược. Ví dụ những yếu tố kinh tế-xã hội chưa được phân tích kỹ càng để xem những tác động của chúng lên thành quả các hoạt động phòng chống sốt rét (di biến động dân thường xuyên từ vùng không có sốt rét tới vùng có sốt rét lưu hành). Ngoài ra, chưa có phân tích những yếu tố nguy cơ khác như tác động của môi trường và biến đổi khí hậu; các biện pháp giảm nhẹ thiên tai; các yếu tố bền vững cũng như sự hợp tác giữa các nước có cùng đường biên giới. Cuối cùng, vân còn thiếu những dẫn chứng cụ thể về chính sách và khung pháp lý giúp thực hiện chương trình có hiệu quả cho những đối tượng có nguy cơ cao.
Theo tiến trình thực hiện chiến lược
Nội dung này không có điểm mạnh tiêu biểu nào, tuy nhiên những tồn tại sau cần xem xét.
- Không có sự tham gia của đối tác tài trợ nào trong việc phát triển chiến lược phòng chống sốt rét mới của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương và Ban Chỉ đạo chương trình phòng chống sốt rét Quốc gia;
- Chiến lược phòng chống bệnh dịch quốc gia năm 2006 nêu quá vắn tắt về sốt rét như là 1 trong 10 chương trình sức khoẻ ưu tiên của quốc gia và chiến lược phòng chống sốt rét mới này đề cập quá ít mối liên quan tới chiến lược phòng chống bệnh dịch quốc gia hoặc Chương trình y tê quốc gia.
Thực hiện và quản lý chương trình
Về ưu điểm, kế hoạch cho các hoạt động hàng năm được xây dựng tới tuyến tỉnh và huyện dựa trên những hướng dẫn của tuyến trung ương. Hệ thống giám sát hoạt động với việc giao ban hàng tháng giữa các xã tuyến huyện và giữa các huyện tuyến tỉnh. Nguồn thu chi ngân sách có tính minh bạch, với sự phân bổ các nguồn lực dựa trên vị trí địa lý và đặc thù ngành (tuyến tỉnh, huyện, xã; quân đội, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn).
Tuy nhiên, còn thiếu sự tham gia phối hợp của các ban ngành khác vào quá trình thực hiện chương trình để đạt được hiệu quả cao hơn, ví dụ các bộ Lao động, Giao thông và Nội vụ, cũng như các đoàn thể khác hoặc các tổ chức phi chính phủ. Về cách tổ chức thực hiện các hoạt động phòng chống sốt rét, sự tồn tại song song của Chương trình phòng chống sốt rét quốc gia và Quỹ Toàn cầu với các hoạt động chồng chéo trong giám sát, phối hợp và thực hiện tại tuyến tỉnh. Hơn nữa, chưa có mô tả chi tiết về kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cũng như sự sắp xếp công việc phù hợp và điều động cán bộ có chuyên môn khác để giải quyết vấn đề thiếu hụt bác sĩ làm công tác sốt rét. Về mặt hành chính, cần có sự thông thoáng hơn trong những hướng dẫn từ các cơ quan thuộc Bộ đối với chương trình phòng chống sốt rét cũng như chính quyền địa phương. Về ngân sách, nguồn kinh phí phần lớn là chi uỷ quyền, nhưng các báo cáo lại thiếu mô tả chi tiết về kế hoạch sử dụng cũng như hệ thống hậu cần, cấp phát vật tư-trang thiết bị.  |  |
Đoàn chuyên gia giám sát kỹ thuật Dự án Quỹ toàn | cầu làm việc tại Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương. |
Kết quả, giám sát và đánh giá
- Báo cáo giám sát dịch tễ sốt rét mô tả chi tiết các hoạt động và thu thập số liệu ở các tuyến khác nhau; cũng như việc thu thập số liệu trong quản lý, phòng chống vector, giám sát dịch và cảnh báo sớm;
- Hệ thống thông tin quản lý sức khoẻ (HMIS) giúp phân tích một cách tống quát các hoạt động của các tuyến qua các báo cáo theo định kỳ.
- Mặc dù có số liệu đầy đủ, những thiếu mô tả đường đi của báo cáo, các phân tích và phương pháp thu thập, xử lý thông tin và cơ chế phản hồi theo hệ thống;
- Chưa có kế hoạch giám sát và đánh giá (M&E) về các hoạt động nghiên cứu SR;
- Hoạt động đánh giá giữa ngành sức khoẻ và các ngành liên quan khác không được đề cập.
Tài chính và kiểm toán
- Văn bản, sổ sách ghi chép đầy đủ các hoạt động theo suốt quá trình thực hiện chương trình, kể cả ngân sách đã cấp cho các Viện;
- Mặc dù ngân sách dành cho phòng chống sốt rét luôn phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của quốc gia, tài liệu của chiến lược phòng chống sốt rét mới không đề cập tới những vấn đề sẽ nãy sinh trong thời gian tới, như:
+ Khả năng từ năm 2011 trở đi, sốt rét sẽ không còn năm trong 10 chương trình sức khoẻ ưu tiên của quốc gia;
+ Tổng ngân sách cho các hoạt động trong chương trình so với các mục ngân sách trong bảng 2.7;
+ Ngân sách bội chi hàng năm (bảng 2.5) tăng thêm 5-10%;
+ Chi phí khung sẽ được áp dụng cho các chi phí hàng ngày và hàng tháng.
Các vấn đề chính để nộp đơn xin “Đề xuất Chiến lược quốc gia PCSR”
1. Chiến lược PCSR quốc gia cũng được xem như đề cương xin cấp kinh phí.
Điều này còn có ý nghĩa đặc biệt hơn trong vấn đề cung cấp kinh phí cho các hoạt động như đào tạo trong nước,lương bỗng, phụ cấp và chi phí. Do đó, chiến lược cần làm rõ những vấn đề cơ bản sau:
- Làm cách nào Việt nam giữ vững những thành quả đạt được ở những lĩnh vực chuyên môn như giám sát, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời cũng như khống chế mức độ lan truyền của SR tại những khu vực thường xuyên xảy ra di biến động, giao lưu biên giới, những nơi khó tiếp cận với các dịch vụ y tế khi hệ thống y tế cơ sở ở đây thường thiếu và yếu;
- Mức độ và cơ cấu kinh phí của nhà nước giai đoạn 2011-2015 với 2 khuynh hướng: Khi SR vẫn còn là 1 chương trình Y tế quốc gia ưu tiên và khi sốt rét không còn là chương trình y tế ưu tiên quốc gia;
2. Không có chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong ngành y tế, vì thế cần phải làm rõ:
- Nhu cầu nguồn nhân lực cho chương trình phòng chống sốt rét quốc gia;
- Chi phí khung áp dụng cho lương bỗng, phụ cấp hàng ngày và hàng tháng;
3. Vai trò, phương pháp và dụng cụ giám sát.
- Cần đưa kế hoạch giám sát và đánh giá (M&E) vào chiến lược phòng chống sốt rét quốc gia
- Hiện tồn tại 2 hệ thống song song trong chiến lược phòng chống sốt rét (của quốc gia và của Quỹ toàn cầu), gây nên hiện tượng chồng chéo trong hoạt động cũng như tốn kém. Chiến lược phòng chống sốt rét quốc gia phải xem xét tổng quát các nhu cầu của chương trình phòng chống sốt rét quốc gia và dựa vào những nhu cầu cụ thể (ví dụ lương bổng, chi phí giám sát, các phương tiện và trang thiết bị), cũng như những dự đoán khi không có khả năng được tại trợ để đảm bảo tính bền vững lâu dài.
Sau khi nghe báo cáo đánh giá của Đoàn giám sát, các đại biểu có liên quan trong nước tham dự đã đánh giá cao vào hoạt động của Đoàn tại Việt Nam và bổ sung một số ý kiến nhằm giúp cho báo cáo đánh giá được hoàn chỉnh và sát với các vấn đề thực tiễn ở Việt Nam, nhất là tính bền vững trong chiến lược phòng chống sốt rét cần được gắn liền với năng lực của màng lưới y tế cơ sở cũng như ý thức tự phòng chống sốt rét của cộng đồng; thành quả phòng chống sốt rét ở Việt Nam nhiều năm qua gắn liền với sự quan tâm đầu tư của Chính phủ và sự hỗ trợ đầu tư cua nhiều Tổ chức quốc tế nên sự tồn tại hai hệ thống song song không có gì chồng chéo mà chỉ tăng nguồn kinh phí trong điều kiện nguồn ngân sách quốc gia còn hạn hẹp…
Để hoàn chỉnh bản đề xuất chiến lực quốc gia ở Việt Nam, dự kiến ngày 16/6/2009 Ban chủ nhiệm Dự án quốc gia phòng chống sốt rét sẽ tổ chức một cuộc họp với sự tham gia của Lãnh đạo các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng cùng các tỉnh đại diện cho các vùng sốt rét ở 3 miền Bắc, Trung, Nam trước khi chính thức gửi bản đề xuất chiến lược quốc gia xin Quỹ toàn cầu tiếp tục tài trợ vào cuối năm 2009.