1. Viet Hieu- viethieu2002@yahoo.com
Hỏi: lâm sàng, cận lâm sàng là gì hả anh? anh có thể định nghĩa cho em được không? Tại sao người ta gọi là sốt rét lâm sàng, chết lâm sàng, anh có thể giải thích cho em rõ hơn được không?
Trả lời:
Lâm sàng, cận lâm sàng là gì ?
- Lâm sàng học là khoa học chuyên nghiên cứu triệu chứng của bệnh ngay trên giường bệnh bằng giác quan của thầy thuốc. Do đó, lâm sàng chính các triệu chứng, dấu chứng, hội chứng, biến chứng mà các thầy thuốc sau khi khám cho bệnh nhân phát hiện được (không bao gồm các triệu chứng, dấu chứng từ kết quả xét nghiệm mà có). Thuật ngữ lâm sàng được dùng rộng rãi có thể đơn thuần hoặc phối hợp với một số thuật ngữ khác trong y học (y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới, tâm lý học lâm sàng, các chuyên khoa lâm sàng, chẩn đoán bệnh lâm sàng, y học lâm sàng, thăm khám lâm sàng, phương pháp lâm sàng, chết lâm sàng,…)
- Cận lâm sàng: Trong thực hành lâm sàng ngày nay, có rất nhiều các thăm dò và xét nghiệm cận lâm sàng, trong số đó có những xét nghiệm thường quy, tổng quát. So với lâm sàng học thì lĩnh vực cận lâm sàng thường nói lên các xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh nhằm hỗ trợ cho chẩn đoán lâm sàng và đưa ra chẩn đoán xác định cũng như chẩn đoán loại trừ. Một số đơn vị thuộc các bệnh viện lớn cũng được phân ra các đơn vị cận lâm sàng như tại BV Việt Pháp (gồm khoa dược, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm và vật lý trị liệu). Vậy chúng ta có thể hiểu thuật ngữ “cận lâm sàng” chính là các đơn vị hoặc khoa phòng liên đới XN, chẩn đoán hình ảnh, …hõ trợ cho lâm sàng trong phát hiện, chẩn đoán vàtheo dõi điều trị bệnh.
Sốt rét lâm sàng và chết lâm sàng?
Cảm ơn bạn đã đặt một câu hỏi thật thú vị, có lẽ trong số chúng ta đã từng nghe qua, song có lẽ chưa hiểu vấn một cách thấu đáo nhất. Nhân đây, chúng tôi muốn đưa ra một số khái niệm, định nghĩa và luận bàn cơ bản nhất về sốt rét lâm sàng và chết lâm sàng:
- Sốt rét lâm sàng:là khi bệnh nhân được nghi ngờ sốt rét, lấy lam máu xét nghiệm (chuẩn vàng giêm sa) chưa có kết quả, hoặc kết quả âm tính hoặc không lấy lam máu làm xét nghiệm; hỏi bệnh và khám lâm sàng cho biết bệnh nhân có các đặc điểm dưới đây thì được liệt kê vào sốt rét lâm sàng (bạn có thể tham khảo thêm trong Quyết định của Bộ trưởng Bộ y tế QĐ 339 QĐ-BYT ngày 31/01/2007 đề cập đến định nghĩa này):
+Sốt > 37.50C hoặc sốt trong 3 ngày gần đây;
+Cơn sốt này không thể giải thích hoặc quy kết cho nguyên nhân nào khác ngoài sốt rét;
+Bệnh nhân đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét trong vòng 6 tháng gần đây;
+Điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày
- Chết lâm sàng: là một trong những giai đoạn thuộc tình trạng hấp hối, hấp hối là tình trạng của một cơ thể trước khi chết. Hầu hết mỗi người trong chúng ta đều có sẵn một ý niệm về cái gọi là chết lâm sàng (NDE). Theo đó thì điều này, (NDE) sẽ xảy ra khi con người đã thực sự đặt chân vào cõi chết. Nhằm giúp bạn hiểu rõ hơn về chết lâm sàng, chúng tôi đưa ra diễn tiến của bệnh nhân trước khi chết, trong đó tình trạng hâp hối có thể chia làm 3 giai đoạn:
+Thời kỳ cuối cùng: trong thời kỳ này, hoạt động của tim và hô hấp ngừng tạm thời 30-90 giây, mất phản xạ mắt, đồng tử giãn rộng. Điểm chủ yếu trong giai đoạn này là sự ức chế vỏ não lan đến các trung tâm quan trọng ở hành tủy. Các hoạt động sống bị rối loạn. Chuyển hóa rối loạn: quá trình giáng hóa mạnh hơn quá trình tổng hợp, dung giải đường mạnh hơn ôxy hoá. Tại não bộ glucose, phosphocreatinin giảm, axit lactic và phospho vô cơ tăng... Thời kỳ này kéo dài khoảng 2-3 phút.
+Thời kỳ hấp hối: trong thời kỳ này cơ thể sống đấu tranh chống lại cái chết. Hô hấp xuất hiện trở lại nhưng là loại hô hấp có chu kỳ gọi là thở cá, tim đập yếu, phản xạ có thể xuất hiện trở lai, người bệnh có thể tỉnh lại. Trong thời kỳ này trung tâm điều hòa hành tủy hoạt động đến mức tối đa để duy trì sự hoạt động của các chức phận sinh lý trong điều kiện ức chế các bộ phận thần kinh. Thời kỳ hấp hối kéo dài vài phút tới vài giờ.
+Thời kỳ chết lâm sàng: hoạt động của tim và phổi ngừng. Thường thì phổi ngừng hoạt động trước tim nhưng đôi khi có trường hợp tim đã ngừng hoạt động mà vẫn thấy thở nhè nhẹ ít lâu. Trong lúc thần kinh trung ương hoàn toàn bị ức chế. Không còn quá trình ôxy hóa và có những rối loạn sâu sắc các men hô hấp. Lượng axit lactic tăng cao, phospho vô cơ cũng tăng lên do sự phá hủy các phức hợp năng lượng cao ATP, phospho, creatinin đều giảm.
* Năm 1962, tác giả Willian Barret, hội viên của Hội y học Hoàng Gia, xuất bản một tập sách ngắn về những ảo ảnh trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Thời gian chết lâm sàng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
+Độ tuổi: tuổi trẻ thời gian này kéo dài hơn người già vì dự trữ năng lượng lớn và khả năng hồi phục tốt hơn;
+Nhiệt độ môi trường: nhiệt độ càng thấp thời gian này càng dài (chúng trường gặp trong các cuộc phẩu thuật liên quan đến tim, người ta phải giữ ngoài lồng ngực với nhiệt độ hạ thấp);
+Đặc điểm quá trình tử vong: những trường hợp chết đột ngột (điện giật) có thời gian chết lâm sàng dài hơn là khi chết kéo dài (chết do ngạt thở);
+Thời gian hấp hối: cũng như tính chất quá trình tử vong, hấp hối càng ngắn thời gian chết lâm sàng càng dài và ngược lại.
* Cũng xin giới thiệu cho bạn một vài trường hợp hoặc ví dụ về thuật ngữ “chết lâm sàng” đã và đang được sử dụng trong một số ngành: y khoa (mô tả cơn hấp hối thật sự bản chất), hoặc dùng trong lĩnh vực tài chính hoặc kinh tế tiền tệ (nhằm mục đích nói lên tính chất hoặc tin nóng,…):
Trường hợp thứ nhất: sống lại sau 17 giờ chết lâm sàng, đó là trường hợp sau hơn 17 tiếng bà Velma Thomas, 59 tuổi, nằm tại một bệnh viện địa phương ở West Virginia (Mỹ) trong tình trạng tim ngừng đập, sóng điện não tắt không còn sóng, người nhà vĩnh biệt và ra về để chuẩn bị lễ tang, thì đột nhiên bà tỉnh lại. Velma Thomas nhập viện với các triệu chứng của một cơn đau tim. Suốt hơn 17 giờ, người ta đã không còn đo thấy sóng não của bà, dù các bác sĩ đã cố gắng tìm mọi cách để cứu sống Thomas, kể cả việc hạ thân nhiệt để kích thích não hoạt động.
"Da của mẹ tôi đã bắt đầu cứng lại, tay và ngón chân của bà co quắp", Tim Thomas, con trai bà kể lại. Không hề có một dấu hiệu sinh học hay thần kinh nào chứng tỏ bà còn sống. Gia đình đã nói lời vĩnh biệt và để bà ở lại bệnh viện để đi chuẩn bị tang lễ. Họ đã rất khó khăn để quyết định rút các hệ thống hỗ trợ sự sống khỏi người bà. Nhưng 10 phút sau khi các y tá rút máy trợ thở, lúc họ còn đang bận thu dọn dây, ống dẫn, thì Velma Thomas tỉnh lại. "Bà ấy cử động cánh tay và chúng tôi đã nghĩ rằng đó là phản xạ", một người cháu cho biết. Các nhân viên y tế vội vàng gọi cho Tim Thomas, khi đó đã đi xa vài dặm, bà đã cử động cánh tay và chân, sau đó ho và cử động mắt. Thật ngạc nhiên, bà bắt đầu nói và khi Tim Thomas trở lại được bệnh viện, mẹ anh đang hỏi con trai đâu.
Luôn có những điều mà các bác sĩ không thể lúc nào cũng lý giải nổi, trường hợp này là một ví dụ như thế, họ gọi sự sống lại từ cái chết lâm sàng của bà Thomas là một điều kỳ diệu. Người nhà thì tin rằng đó là nhờ ham muốn sống mãnh liệt của bà.
Trường hợp thứ hai:Doanh nghiệp đang "chết lâm sàng"? đó là vấn đề nóng mà Tiến sĩ Lê Đăng Doanh trao đổi với VTC News khi đề cập đến việc điều chỉnh lãi suất cơ bản đồng Việt Nam là bước đi cần thiết, đúng đắn song cần có chính sách tốt cho các doanh nghiệp sản xuất. Lãi suất cho vay cao đang đẩy các doanh nghiệp vào thế “chết lâm sàng” (http://www.vtc.vn, ngày 11/06/2008)
Trường hợp thứ ba:Lãi suất và cái “chết lâm sàng”. Đến chiều 17-6, lãi suất huy động vốn tiếp tục được các ngân hàng thương mại đẩy lên một mức mới, tiến tới gần 19%/năm. Điều này dẫn tới một nghịch cảnh: trong lúc hàng vạn người dân đang vui mừng vì được thêm đồng lãi tiết kiệm thì hàng loạt các doanh nghiệp (DN) lại “đau đớn” rơi vào tình trạng khó khăn chồng chất, đặc biệt là đối với các DN xuất khẩu. Với mức vay khoảng 18-19%/năm, cộng thêm chi phí từ 3-5% dẫn đến các DN đang phải trả lãi ngân hàng từ 21-24%/năm. Mức lãi suất này đã đẩy nhiều DN vào chỗ thua lỗ, còn tình trạng không lãi hoặc phải hạ chỉ tiêu tăng trưởng là chuyện không còn phải bàn. Một ví dụ cụ thể, năm 2007, đa số DN xuất khẩu gỗ có mức tăng trưởng 40-80%. Trước khó khăn về vốn do lãi suất cao lại thêm quyết định DN không được vay ngoại tệ đã buộc các DN ngành này điều chỉnh tăng trưởng xuống còn 25%. Nhưng thế cũng đã thành “tỉ lệ xa xỉ” vì trong những tháng đầu năm nay, mức tăng trưởng chỉ là 8,7%, thấp nhất trong nhiều năm qua.
Lãi suất quá cao cũng khiến một số DN đang có khát vọng mở rộng đầu tư, sản xuất phải gác lại dự định của mình vì quá khó khăn về nguồn vốn. Siêu lợi nhuận trở thành câu chuyện không tưởng. Không chỉ vậy, nhiều DN còn khốn khó vì họ nằm trong đích ngắm thôn tính của các quỹ đầu tư và DN nước ngoài, và chuyện DN phải “bán mình để tự cứu mình” đã diễn ra. Đó là chưa kể, cùng với sức ép lãi vay tăng cao, DN còn đang phải gồng mình chống đỡ với giá nguyên liệu tăng và trách nhiệm chung vai kiềm chế lạm phát.
2. Trần Thu Hằng; trung_mayhai@yahoo.com; 14 tổ 3 Cẩm Phả, Quảng Ninh
Hỏi: Xin quý viện cho hỏi mỗi lần tôi thấy ngứa ở vùng bụng dưới, tôi gãi và phát hiện ra có những chấm đen bám rất chắc, tôi cạy ra để một lúc thấy nó chuyển động, rất nhỏ và mỏng bám chắc trên da, tôi nghĩ có thể là một loại ve hay gián gì nó nên rất lo lắng. Mong quý viện chỉ cho biết vật đó sinh ra từ đâu vậy? Tôi không phải là kẻ ở bẩn mà sao lại có. Xin quý viện chỉ cho cách phòng tránh và điều trị. Xin vô cùng cảm ơn.
Trả lời: chúng tôi rất thông cảm cho các băn khoăn và trăn trở của bạn về triệu chứng ngứa ở vùng bụng dưới và mảng đen bám chắt trên da. Song trong mail bạn không gởi hình ảnh của loại sinh vật mà bạn bắt được cũng như tổn thương cơ bản trên da bạn, để chúng tôi có thể chẩn đoán sơ bộ và đưa ra lời khuyên hợp lý. Nếu theo như mô tả, thật sự chúng tôi cũng không dám khẳng định được loại gì. Khuyên bạn nếu hiện tại triệu chứng và mảng đen bám trên da vẫn còn, bạn có thể đến khám tại Viện Da liễu Trung ương tại Hà Nội (trong khuôn viên bệnh viện Bạch Mai) hoặc Viện Sốt rét KST-CT Trung ương tại Hà Nội. Thân chúc bạn sớm tìm ra được bệnh và có thái độ phòng tránh hợp lý, luôn có sức khỏe và thành đạt.
3. Nguyễn Thị Mai Trinh; conangtrongmong_qn2001@yahoo.com; hem 162 Phạm Ngũ Lão, tp Quy nhơn, tỉnh Bình Định
Hỏi: năm nay cháu 17 tuổi, cháu hay bị đau đầu và mờ mắt khi ngồi lâu, cháu không hiểu từ khi thi xong học kỳ 2 tới giờ, buổi tối cháu không ngủ được, cháu đi khám bác sĩ bảo cháu bị bệnh mạch máu não khác, cháu đọc trên mạng thì bệnh này cháu không biết ở lứa tuổi cháu có nguy cơ mắc không mà trước đó một năm cháu đi khám về tim thì bị hở van tim.
Trả lời: Trước tiên, chúng tôi rất thông cảm và chia sẻ cùng với bạn về chứng đau đầu, song cũng khuyên bạn nên bình tĩnh để tìm ra bệnh và còn tập trung thi nữa chứ. Đau đầu là một chứng chứ không phải là bệnh, có thể đau đầu nguyên phát hoặc thứ phát sau một bệnh thực thể hoặc chấn thương, cần tóm tắt với bạn rằng:
- Đau đầu có thể nguyên phát hoặc thứ phát: trong đó nhức đầu nguyên phát (primary headache) không liên quan đến bệnh khác gây ra, chẳng hạn đau nửa đầu do migraine (con số không nhỏ, chẳng hạn ở Mỹ có khoảng 28 triệu dân bị mắc chứng này, bệnh có thể có mặt cả trẻ em và người lớn, ở tuổi trưởng thành thì giới nam và nữ bị ngang nhau, song sau tuổi dậy thì nữ giới mắc nhiều hơn nam giới), đau đầu do co thắt mạch (loại này hay gặp phụ nữ hơn nam giới và chiếm 90% số ca đau đầu nguyên phát) hoặc đau đầu khu trú vùng (loại này khá hiếm gặp và chỉ chiếm 0.1% dân số, bệnh gặp ở nam hơn nữ giới, lứa tuổi mắc nhiều nhất là 28-32 tuổi).
- Ngược lại, đau đầu thứ phát (secondary headache) có liên quan đến nhiều bệnh khác nhau từ nhẹ, trung bình đến nặng thậm chí đe dọa tử vong. Nhiều nguyên nhân và đa dạng về mặt bệnh, đôi khi khó hoặc không tìm ra căn nguyên. Một số nguyên nhân có thể: u não (lành hoặc ác tính), phình mạch, đột quỵ, xuất huyết trong não, viêm màng não, viêm não, lao màng não, viêm não màng não do ký sinh trùng (giun lươn, giun đũa chó, mèo, giun mạch, ấu trùng sán lợn,…), xuất huyết dưới nhện, lạm dụng thuốc kích thích và giảm đau, cảm, cúm, bệnh về viêm đa xoang, đơn xoang, viêm tai, viêm răng miệng, rối loạn thị lực (rất nhiều người rối loạn thị lực không hay biết cho đến khi phát hiện khá nhiều), một số bệnh về đốt sống, thoái hóa hoặc dính đốt sống cổ,….
- Đôi khi chúng ta gặp cả đau đầu thứ phát và nguyên phát trên chúng một bệnh nhân.
Trong thư bạn có cho rằng đau đầu và mờ sau khi ngồi lâu (do học hoặc sử dụng vi tính) đó có thể do bạn tập trung vào học bài hoặc làm bài tập. Đau đầu ở đây có thể [1] sự điều tiết của mắt trong thời gian dài ngồi học, [2] ngồi cuối đàu quá thấp trong thời gian dài sẽ gây ra sự bất động ở đoạn cột sống vùng cổ tạm thời, thiếu máu, giảm oxy lên não (nếu có thoái hóa đốt sống tại đây thì tình trạng còn nghiêm trọn hơn) gây cho bạn cũng cảm thấy nhức đầu và mờ mắt, [3] nếu trong phòng học của bạn tại nhà chỉ đặt đèn bàn, trong khi các đèn phòng tắt đi, ngồi học một lúc lâu, đứng dậy đi ra ngoài cũng gây cảm giác mờ mắt và váng đầu tạm thời,…Ngoài ra, chúng tôi chưa kể đến thời gian chuẩn bị thi cử học kỳ hai khiến bạn lo lắng và học dồn cũng gây nên hiện tượng chồng chéo (overlap) các môn học với nhau, khiến bạn mệt mỏi và nhức đầu, hoặc ở lứa tuổi bạn chu kỳ kinh nguyệt có thể chưa “chạy đều”, nên đôi khi trước và trong khi có hành kinh cũng khiến bạn đau đầu, mệt mỏi. Đó là chúng tôi chưa đề cập đến tâm tư tình cảm ở tuổi mới lớn của bạn cũng có thể can thiệp khiến bạn buồn vui bất chợt, v.v…v.v.
Về phần sau khi thi học kỳ 2 xong, cháu không ngủ được, có thể nhiều lý do: [1] trước khi bạn cố gắng thức thật khuya để học bài, làm rối loạn giấc ngủ thường nhật, [2] sau khi thi xong bạn có thể lo lắng về kết quả thi, [3] chu kỳ sinh học về giấc ngủ để đạt được ngưỡng bình thường trở lại phải có thời gian, nhưng không lâu, bạn đứng lo. Còn sau khi đi khám bác sĩ bảo cháu bệnh mạch máu não, bạn biết rằng bệnh mạch máu não rất đa dạng, khó chẩn đoán, đôi khi không thể tìm ra căn nguyên, nói chung khi khó chúng ta thường quy kết là rối loạn vận mạch máu não, bệnh có thể tự khỏi sau khi nghỉ ngơi hợp lý. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thông thường lành tính.
Với triệu chứng hở van tim mà bạn đề cập có liên quan đến đau đầu hay không, chúng tôi khuyên bạn nên đi khám ở một cơ ở hoặc bác sĩ chuyên khoa tim mạch để được khám, làm điện tâm đồ (ECG_ElectroCardioGraphy), điện não đồ (EEG_ElectroEncephaloGraphy), siêu âm tim mạch (CU_Cardiovascular Ultrasound) để được phát hiện, chẩn đoán, điều trị nếu có và đặc biệt nhận lừoi khuyên hợp lý từ bác sĩ chuyên khoa tim mạch. Thân chúc bạn khỏe và đạt được nhiều kết quả tốt trong học tập.
4. Thanh Tân; myhunggle@yahoo.com.vn
Hỏi:thuốc Dietylcarbamazine & Thiabendazole có bán tại Việt Nam không? Nếu có, mua tại đâu ?
Trả lời:Thông tin về hai loại thuốc điều trị hoặc phòng bệnh ký sinh trùng:
-Thuốc Diethylcarbarmazine (DEC) được dùng để điều trị bệnh giun chỉ bạch huyết, có thể phối hợp với thuốc albendazole hay không nhằm mục đích tăng hiệu lực điều trị bệnh giun chỉ bạch huyết_Xin xem phần Cập nhật thông tin về bệnh giun chỉ bạch huyết và đái dưỡng chấp trên cùng trang website của Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, trang tin về chuyên đề ký sinh trùng) và bạn xem hình bên (thuốc Albendazole và Diethylcarbamazine); Thuốc Thiabendazole là loại thuốc điều trị một số bệnh giun trên người (biệt dược hay gặp là Mintazole viên nén 500mg, khi dùng cần chú ý tác dụng phụ, đôi lúc rất nghiêm trọng).
-Cả DEC và Thiabendazole và mebendazole hiện là 3 thuộc đầu tay trong điều trị bệnh giun đũa chó, mèo (Toxocara canis hoặc Toxocara cati ở người và vật nuôi (chó, mèo). Trong trường hợp không có các thuốc trên, các nhà chuyên môn khuyên dùng mebendazole.
-Chúng tôi được biết tại Việt Nam hiện dường như không có thuốc DEC bán ra thị trường, riêng thuốc Thiabendazole thì có bán tại một số quầy thuốc lớn hoặc bạn có thể được điều trị tại một số cơ sở y tế tại thành phố Hồ Chí Minh, quanh các bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Bình Dân và bệnh viện Nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh nhưng hiện nay cũng rất hiếm, phần lớn các thuốc này do người thân ở nước ngoài mang về dùng rồi dư ra bán lại hoặc nguồn hàng mang trực tiếp từ nước ngoài về với số lượng có hạn. Nếu tìm không còn thuốc này trên thị trường, có người thân ở nước ngoài có thể liên hệ tại các Trung tâm Nhiệt đới và Vệ sinh hoặc trung tâm CDC tại Mỹ và Đức (tại Thái Lan và Cambodia, 2 thuốc này có khá nhiều tại các Trung tâm y học nhiệt đới). Hy vọng bạn sớm có thông tin, nhưng chúng tôi lưu ý bạn răng bất kỳ thuốc nào cũng có những tác dụng phụ hoặc phản ứng có hại đối với cơ thể cả, thậm chí có thể phản ứng gây chết người, do vậy bạn nên đến khám bác sĩ chuyên khoa và được chẩn đoán, điều trị cũng như theo dõi phản ứng sau khi dùng thuốc an toàn cho bản thân bạn và hợp lý nhất trong điều trị.
5. nguyen van sinh-cuocsong_luonnhuthe@yahoo.com; Nguyễn Văn Sinh, hòm thư78.BD Thống Nhất, Krông Buk, Đăk Lăk, 0902611085
Hỏi: để xét nghiệm tìm ấu trùng giun chỉ bạch huyết ngoài cách nhuộm và soi dưới kính hiển vi quang học, còn có cách nào khác tìm ra ấu trùng giun chỉ nữa không?
Trả lời:Đa số người bệnh (90-95%) nhiễm giun chỉ bạch huyết (có ấu trùng trong máu) nhưng không có các biểu hiện lâm sàng qua nhiều năm hoặc thậm chí cả đời. Thông thường chẩn đoán một ca bệnh, đặc biệt các bệnh giun sán và ký sinh trùng khác thì chúng ta thường dựa vào công thức cơ bản của chẩn đoán = Lâm sàng + Cận lâm sàng + Yếu tố dịch tễ. Nhằm giúp bạn hiểu tổng quát về chẩn đoán ca bệnh giun chỉ một cách cơ bản, chúng tôi xin trình bày đầy đủ như sau:
Triệu chứng lâm sàng
* Các triệu chứng cấp tính:
- Sốt: có thể sốt cao, xuất hiện đột ngột, kèm theo mệt mỏi và nhức đầu nhiều, thường tái phát từng đợt, mỗi đợt kéo dài 3-7 ngày;
- Viêm bạch mạch và hạch bạch huyết: thường xuất hiện sau sốt vài ngày, xuất hiện viêm đỏ, đau dọc theo bạch mạch, thường là mặt trong chi dưới, hạch bẹn có thể sưng to đau.
* Các triệu chứng mạn tính:
- Viêm hoặc phù bộ phận sinh dục: viêm thừng tinh, viêm tinh hoàn, tràn dịch màng tinh hoàn. Trường hợp viêm bạch mạch mạn tính ở bộ phận sinh dục, bệnh nhân có thể biểu hiện triệu chứng bìu voi hoặc vú voi;
- Phù voi chi dưới: là hậu quả của viêm mạn tính hạch và mạch bạch huyết chi dưới với đặc điểm phù cứng, da dày như chàm hóa. Tùy mức đọ phù có thể từ bàn chân lên đến đùi;
- Tiểu dưỡng chấp: biểu hiện lâm sàng bằng đi tiểu ra nuớc trắng đục như nước vo gạo, để lâu không lắng; đôi khi lẫn máu đi kèm, trường hợp lượng dưỡng chấp trong nước tiểu nhiều, để lâu nước tiểu có thể đông lại như cục mỡ.
Triệu chứng cận lâm sàng
- Phương pháp xét nghiệm phát hiện ấu trùng trong máu ngoại vi: đây là phương pháp phổ biến và đơn giản nhất hiện nay. Lấy máu vào ban đêm (từ 20 giờ -24 giờ), làm tiêu bản, nhuộm giêm sa và soi tìm ấu trùng dưới kính hiển vi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp phù chân voi hoặc tiểu dưỡng chấp, tỷ lệ phát hiện tìm thấy ấu trùng trong máu rất thấp (khoảng 3-5% bệnh nhân); kỹ thuật này có thể phát hiện cả 2 loài giun chỉ bạch huyết;
- Đối với Wuchereria bancrofti: ngoài phương pháp làm xét nghiệm máu ban đêm tìm ấu trùng như B.malayi thì hiện nay còn có thử nghiệm chẩn đoán nhanh (ICT_ImmunoChromatographic Test) có thể xét nghiệm máu ban ngày và cho kết quả ngay sau đó trong vòng 10-15 phút. Đây chính là nội dung cơ bản mà bạn hỏi chúng tôi. Hy vọng bạn đã có đầy đủ nội dung mình cần.
7. Huỳnh Ngọc Đức; onlinebonsai@yahoo.com.vn, tổ 35 KV7, P. Đống Đa, tp. Quy Nhơn, Bình Định, 0919587809,
Hỏi: Xin chào ban biên tập trang website của Viện Sốt rét Quy Nhơn!Tôi biết bệnh sốt rét là một bệnh rất phổ biến và nguy hiểm, gây khó khăn cho công việc chữa trị và nguy hiểm đến sức khỏe người bệnh. Cha tôi có truyền lại cho tôi một phương pháp phòng trị sốt rét (đã có nhiều người khỏi bệnh với xác suất 100%) chỉ với mấy lát gừng và dùng câu thần chú (phải cùng lúc sáng sớm) sau đó băng vào tay người bệnh nhân (thay băng mỗi ngày) chỉ 3 hôm sau người bệnh sẽ khỏi. Nếu trường hợp bệnh đã kéo dài trên 10 năm thì cần làm khoảng 5-7 lần là hết bệnh. Hoàn toàn không uống thuốc đối với bệnh dưới 10 năm và uống 3 vị thuốc nam đối với trường hợp bệnh nặng. Vậy xin hỏi các bác sĩ và các nhà nghiên cứu có biết về phương pháp này không và liệu tôi có đựợc phép chứng minh điều đó không ? (nếu có thể, tôi sẽ trị đối chứng cho các vị xem trên bệnh nhân và hoàn toàn không phải vì mục đích thương mại).
Trả lời: Thân chào anh Đức, phải nói rằng chúng tôi rất trân trọng về việc áp dụng kiến thức y học cổ truyền và y học dân gian của cha anh và anh trong thời gian qua đã được áp dụng cứu được rất nhiều người bệnh, trong đó bao gồm bệnh sốt rét và đặc biệt gia đình anh đã chữa bệnh tôn trọng y đức và không hướng đến mục đích thương mại. Đồng thời việc kết hợp Đông Tây hoặc y học hiện đại và y học cổ truyền (traditional medicine + modern medicine) trong điều điều trị và phòng bệnh là một trong những hướng đi đúng và từng bước phát huy không những tại Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới cũng đã và đang thực hiện, ngay cả những nước phát triển (Trung Quốc, Đức, Pháp, Hà Lan, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Iran, Ai Cập), thậm chí hàng năm doanh thu từ thuốc y học cổ truyền chữa bệnh có hiệu quả của các quốc gia lên đến hàng tỷ USD.
Về bài thuốc của gia đình anh là một bài thuốc được xem là cổ truyền, từ rất lâu có khá nhiều bài thuốc thảo dược (trong đó có vị gừng) dùng để điều trị các bệnh có sốt và nhất là sốt rét, lợi dụng tinh chất của gừng như một kháng sinh đa phổ đã giúp điều trị có hiệu quả một số bệnh viêm nhiễm, bệnh ký sinh trùng, đơn bào hoặc các bệnh lý tiêu hóa do hàn. Vị gừng có thể dùng đơn lẻ hoặc thường phối hợp một số vị khác dùng điều trị sốt rét từ xa xưa. Song song với bài thuốc của gia đình anh, còn có một số bài thuốc hỗ trợ khác như bài thuốc lá mãng cầu, chè xanh,…Hoặc ngay cả thuốc sốt rét đặc hiệu với Artemisinine và dẫn suất hiện nay đang dùng rất rộng rãi trên 45 quốc gia và trên 72 quốc gia khuyến cao dùng để điều trị sốt rét, đặc biệt là sốt rét nặng và sốt rét ác tính, đa kháng thuốc cũng xuất xứ từ thảo dược đó là câu Thanh hao hoa vàng trong tài liệu y học cổ truyền; bài thuốc từ lá thanh hao hoa vàng (Artemisia annua.) được sử dụng làm trà uống thường nhật ở những người dân sống trong vùng sốt rét ở Trung Quốc một thời gian trước đây đã tình cờ giảm tỷ lệ bệnh tật sốt rét đáng kể mãi đến sau này các nhà khoa học mới nhận ra.
Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu với anh một số bài thuốc y học cổ truyền được áp dụng điều trị hoặc hỗ trợ điều trị sốt rét trong dân gian trong một thời gian dài. Dù biết rằng hiện nay sốt rét được điều trị bởi thuốc tây y là phần lớn, song trong số những thuốc ấy có một số thuốc có được do tổng hợp có nguồn gốc thực vật. Qua một thời gian dài, những vị thuốc bắt nguồn từ thực vật đó đã được đúc kết, chắt lọc và chỉnh sửa lại góp phần bổ sung nhiều dẫn liệu trong kho tàng y học cổ truyền dân tộc.
Bài 1: Bài thuốc gồm có cây thường sơn, trên thực tế thì thường sơn có 3 loại (thường sơn tía, thường sơn trắng và thường sơn Nhật Bản). Thường sơn tía thuộc họ tú cầu, có tên khác là áp niệu thảo, ô rô lửa, thục tất (người Tày gọi là Sleng Slảo mè) là một cây nhỏ, cao khoảng 1-2 m, có quả vào tháng 5-6, mọc hoang ở rừng núi, chỗ ẩm mát, ven suối, nó có nhiều ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Hoà Bình, Bắc Cạn.
Bộ phận dùng làm thuốc của cây thường sơn là rể và lá, thu hái quanh năm, rửa sạch, phơi khô cắt nhỏ, tẩm rượu sao, rồi tán bột hoặc làm viên. Ngày uống 6-12 gam, có thể dùng riêng hoặc phối hợp với lá hà thủ ô đỏ phơi khô (10g) và phèn phi (0,01g).
Nếu để điều trị sốt rét: có thể áp dụng bài thuốc sau: lấy rể thường sơn, hạt cau rừng, nga truật 20g, ô mai 20g, trần bì 20g, sa nhân 20g, bán hạ chế 20g, mai ba ba 20g. Tất cả cho vào nồi và 1 lít rượu và 1lít giấm, ngâm trong một ngày đêm. Đun cho cạn hết dung dịch phơi khô, thaí nhỏ, sao giòn, tán và rây bột mịn, rồi trộn với hồ làm viên bằng hạt đậu xanh, sấy khô. Người lớn uống 30-40 viên/ ngày, trẻ em tuỳ tuổi uống 10-20 viên/ngày.
Bài 2: Bài thuốc thường quế chữa sốt rét cách nhật: là thường sơn 80g, tẩm rượu sao vàng, thảo quả 30g, sao cháy vỏ; quế chi 24g phơi khô và hạt cau rừng 20g, thái mỏng phơi khô. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, trộn đều. Người lớn mỗi lần uống 8-12g; trẻ em từ 3-7 tuổi mỗi lần uống 2g, trên 10 tuổi uống 6g. Ngày dùng 2 lần uống với nước ấm. Phụ nữ mang thai không nên dùng các bài thuốc này.
Bài 3:Hạt cau, thường sơn, hạt dành dành, 3 vị trên bằng nhau, tán nhỏ, viên với mật bằng hạt đậu xanh, uống với rượu mỗi lần 50-60 viên, trước khi lên cơn, uống vào bữa ăn: sau khi đã ăn được nửa bửa thì uống tiếp tục, rồi ăn tiếp cho no.Bài thuốc này có tác dụng điều trị sốt rét cơn.
Bài 4: Nhân hạt gấc, vảy tê tê rang phồng đều bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi ngày 12 gam với rượu, bài thuốc có tác dụng chữa sốt rét có bàng hay lách to.
Bài 5: Ô mai bỏ hột 4 quả, thường sơn đồ với dấm, phơi khô tán nhỏ 8 gam, giã nhỏ làm viên, uống với rượu vaò lúc sáng sớm, đón trước khi lên cơn. Bài thuốc này có tác dụng SR cơn (Bách gia trân tàng).
Bài 6: Lá hồng bì tươi 40-50 gam, sắc uống nóng cho ra mồ hôi. Bài thuốc có tác dụng chữa sốt rét cơn.
Bài 7: Lá na một nắm nhỏ (khoảng 20 g tươi), sắc uống hàng ngày, nên uống để chặn trước khi lên cơn sốt. Bài thuốc có tác dụng cắt cơn sốt.
Bài 8: Tỏi củ 6-7 củ, để sống một nửa và nướng chín một nửa, ăn cho hết, nôn hay đại tiện thông thì hết (Nam dược thần hiệu).
Bài 9: Hi thêm tươi một nắm, giả nhỏ chế nước sôi vào, vắt lấy nước cốt uống một chén, uống nhiều lần sẽ làm nôn được đờm dãi. Bài thuốc có tác dụng chữasốt rét lâu ngày, đờm đọng không muốn ăn uống.
Bài 10: Rể cỏ xước 1 nắm, giã nát, sắc uống. Bài thuốc trị sốt rét cơn lâu ngày không khỏi.
Bài 11: Thân và rễ cây ớt sao vàng, sắc uống ngày 2 lần, mỗi lần 100ml.
Bài 12: Lá na 19g, lá chè xanh 19g, lá trường sơn (bỏ gân lá) 4g, lá dành dánh 11g. Các vị dùng tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt uống. ngày uống một lần, mỗi lần một chén uống nước, phụ nữ có thai không được dùng.
Bài 13: Bột riềng khô 20g, bột can khương 80g, bột quế 40g, bột thảo quả 80g, tất cả luyện với hồ tẻ, viên lại bằng hạt ngô hoặc hạt lạc, sấy khô dùng dần. dùng được cho người lớn và trẻ em sốt theo cơn.
Bài 14: Lá hà thủ ô 5g sao vàng, sắc đặc; ngày uống một ấm, có thể uống liên tục được. Dùng cho người bị sốt rét lâu ngày và cơ thể suy yếu.
Bài 15: Thường sơn 40g, tỏi 12g, mai ba ba 60g (sao giấm), bình lang (hạt cau già) 20g, thảo quả 16g, tất cả tán nhỏ làm hoàn. Ngày uống hai lần, mỗi lần 8-12g với 1/3 chén rượu 600 (chén uống nước, uống trước khi lên cơn sốt 1 giờ). Dùng cho người bị sốt rét lâu ngày, lách sưng to.
Bài 16: Nụ đinh hương 40g, phèn đen 200g, hồi hương 120g. dùng nồi và chõ đất, nồi bên dưới, chõ đất bên trên. Các vị thuốc tán nhỏ, cho vào nồi, đổ 2/3 nước. Dùng cám hoặc đất sét nghiền với giấy bản hoặc khoai lang trát vào khe hở giữa nồi và chõ đất. Trong thành chõ và vung chõ dán một số giấy cho dễ thu thuốc ở nồi dưới bốc lên bám lại (theo lối đồ thăng hoa). Đun sôi khoảng 3-4 giờ để chất thuốc bám vào giấy dán trong thành chõ và vung chõ. Cạo lấy bột thuốc đó, dùng hồ gạo nếp nấu lỏng hoàn lại thành viên, mỗi viên bằng nửa hạt đậu xanh, sấy khô. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 3-6 viên. 7-12 ngày là một liệu trình. Bài thuốc trên có tác dụng chữa sốt, lách sưng.
Về việc anh đề nghị có thể thử nghiệm bài thuốc trong điều trị bệnh nhân sốt rét với chúng tôi, chúng tôi rất trân trọng anh và gia đình đã tận tâm cố gắng nghiên cứu khoa học (không vì mục đích trhương mại) để phổ cập bài thuốc cho người dân. Chúng tôi khuyên anh có thể liên hệ trực tiếp với các phòng chức năng của Sở Khoa học và công nghệ Bình Định, Sở y tế Bình Định và Bộ y tế Việt Nam để xin làm thủ tục thực hiện nghiên cứu này. Kính chúc anh thành công và ngày càng giúp điều trị nhiều bệnh nhân khỏi bệnh.
8. Huu Thang, hthang_cjac@yahoo.com, 0907936495
Hỏi:thưa bác sĩ, căn cứ vào triệu chứng trong bài viết về sán dây bò và sán dây heo, tôi đã bị mắc phải bệnh sán dây bò (vì thường ăn phở bò tái). Nhưng khi đi mua thuốc để trị bệnh thì thuốc Praziquantel (biệt dược Binocide hay Biltricide) không có. Vậy tôi có thể dùng thuốc nào để tẩy sán dây bò ? Chân thành cảm ơn.
Trả lời:
Trước hết, chúng tôi rất tâm đắc với việc nắm bắt thông tin y học và tự bảo vệ sức khỏe của bạn và cả gia đình bạn là điều rất tốt, thế nhưng để dùng thuốc (dù thuốc đó có ít tác dụng phụ) bạn cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ để tránh những phản ứng phụ đáng tiếc bạn nhé. Riêng thuốc Praziquantel (biệt dược Binocide hay Biltricide) không có vì hai laọi biệt dược này có bán tại các nước châu Âu và bắc Phi, Trung Phi; tuy nhiên, bạn có thể mua một biệt dược khác đang có mặt trên thị trường là Distocide 600mg, viên nén (do hãng dược phẩm ShingPhon, Hàn Quốc sản xuất và phân phối), hiệu quả rất tốt. Nhân đây, chúng tôi sẽ đề cập về cách dùng thuốc điều trị cho bạn rõ hơn để bạn tham khảo.
Một số thuốc đặc hiệu cho bệnh sán dây và ấu trùng sán lợn (ATSL) như praziquantel, niclosamide và albendazole. Phác đồ điều trị như dưới đây:
-Điều trị bệnh sán dây trưởng thành: praziquantel 15-20mg/kg cân nặng liều duy nhất hoặc niclosamideliều 2 gam cho người lớn liều duy nhất hoặc có thể lặp lại liều trong vòng 7 ngày nếu cần thiết (http://www.drug.com 2007);
-Điều trị bệnh ấu trùng sán lợn, chúng ta có thể dùng 1 trong 2 phác đồ sau đây:
+ Praziquantel 30mg/kg/ngày x 15 ngày x 2-3 đợt (mỗi đợt cách nhau 10-20 ngày);
+ Hoặc Praziquantel 15-20mg/kg, liều duy nhất ngày đầu. Những ngày sau dùng albendazole 15mg/kg/ngày x 30 ngày x 2-3 đợt (đợt cách đợt 20 ngày).
-Với trẻ em, khi điều trị bằng thuốc niclosamide, cần cho liều theo cân nặng cơ thể và đượcchỉ định bởi bác sĩ (theo http://www.Drug.com 2007)
+ Với những trẻ từ 11-34 kg: liều cho 1 g, liều duy nhất, điều trị có thể lặp lại trong vòng 7 ngày nếu cần thiết;
+ Với trẻ > 34 kg: liều cho bệnh nhân 1.5 g, liều duy nhất, điều trị có thể lặp lại trong vòng 7 ngày nếu cần thiết.
9. Lê Hữu Minh; minhlh67@gmail.com; Nghĩa Hành, Quảng Ngãi.
Hỏi:kính thưa của Viện sốt rét Quy Nhơn, gia đình tôi có người mắc sán lá gan đã điều trị dứt điểm năm 2006 tại phòng khám của Viện, gần đây tôi nghe nhiều người nói bệnh sán lá gan có thể gây ung thư gan, xin bán sĩ cho biết thực hư thế nào?
Trả lời: Trước hết chúng tôi rất thông cảm về lo lắng bệnh tật và mong anh cùng gia đình bình tĩnh, anh Minh ạ. Ung thư hệ thống gan mật có thể do nhiều nguyên nhân chứ không nhất thiết do duy nhất bệnh sán lá gan, một số tác nhân đó có thể do virus viêm gan B, C, do vi khuẩn, do nấm, do phóng xạ, hóa chất, di truyền,….Bệnh sán lá gan gồm có bệnh do sán lá gan nhỏ (do loài Opisthorchis viverinii và Chlonorchis sinensis) và bệnh do sán lá gan lớn (loài Fasciola hepatica và Fasciola gigantica). Tuy nhiên, đến thời điểm này chỉ có những dữ liệu mô tả cho biết ung thư đường mật xảy ra trên những ca bệnh sán lá gan nhỏ, trong khi các ca bệnh sán lá gan lớn thì chưa có dữ liệu cụ thể chứng minh có liên đới với ung thư gan mật. Dưới đây là một số nghiên cứu chứng minh cho biết điều đó qua tổng hợp y văn trên thế giới:
+ Với tổn thương do sán lá gan nhỏ và ung thư đường mật: khá nhiều nghiên cứu trên thế giới và đặc biệt tại Thái Lan (có cả một trung tâm nghiên cứu về bệnh sán lá gan nhỏ (SLGN) và liên quan với ung thư đường mật) đã chứng minh rất logic và khoa học thông qua các hình ảnh, dữ liệu, giải phẩu bệnh học của ung thư đường mật (cholangiocarcinoma) do SLGN. Trong bệnh SLGN do Opisthorchis viverini hoặc Clonorchis sinensis, tổn thường giải phẩu bệnh được mô tả qua khá nhiều tài liệu y văn, nhất là tổn thương có liên quan đến hệ đường mật (biliary tract). Phần lớn tác giả đề có chung nhận định rằng gan to, nặng có thể đến 4kg nhưng điểm đặc biệt là có nhiều ống dẫn mật phình to, màu trắng nhạt, rải rác trên mặt gan; cắt các chỗ phình đó sẽ chảy ra một chất nước màu xanh, đường mật hẹp lại xơ cứng và mô xơ thu hẹp, lan tỏa cả nhu mô gan, tế bào gan thoái hóa mỡ và hạt, dẫn đến xơ gan nhanh chóng. Những trường hợp nhiễm mạn tính, có sự tăng nhanh của các tế bào biểu mô và tạo thành các hạt, thay đổi mức độ xơ hoá các đường mật; tăng kích thước túi mật và đường dẫn mật, dày thành ống mật, hình thành các cặn lắng, sỏi bùn hoặc cặn mật cũng đã được mô tả qua siêu âm hệ gan mật (Dhiensiri và cộng sự., 1984). Các quan sát dưới kính hiển vi (TEM hoặc SEM) và hóa mô miễn dịch thấy có sự thay đổi trong túi mật và ống dẫn mật ngoài gan, tạo thành u tuyến nhú lên, tăng sinh, tróc vảy, tăng nhanh tế bào lót biểu mô, loạn sản các lớp tế bào và cuói cùng là gây ung thư hóa.
+ Tổn thương gan mật do sán lá gan lớn: tổn thương bệnh học của gia súc do sán lá gan lớn (SLGL) Fasciola hepatica và Fasciola gigantica mô tả rất chi tiết trong y văn (Sinclair và cs, 1967; Boray và cs, 1969; Behn và Sangster.,1998) và đã được minh hoạ bằng hình rất nhiều (Boray và cs.,1999). Một vài hình ảnh cũng nói lên được chu kỳ sinh học của Fasciolae và tổn thương bệnh học trong gan rõ. Coudert mô tả về giải phẩu bệnh học do F.hepatica, đó là như những chuỗi nốt viêm hạt kê trong nhu mô gan, điều đó có thể giải thích được những hình ảnh có nhiều abcès nhỏ trên siêu âm mà các nhà chẩn đoán hình ảnh đề cập đến. Cấu trúc giải phẩu gan là luôn to ra với mặt ngoài nhẵn hoặc đôi chỗ gồ ghề, tổn thương đại thể gồm các nốt mềm trắng vàng hoặc trắng xám. kích thước các ổ abces 2-30mm tương ứng với các ổ tăng bạch cầu ái toan, các nốt này cũng có thể quan sát được khi soi ổ bụng thăm dò gan và các dây chằng quanh gan, có thể thấy các chấm xuất huyết tại các bờ của nốt, có những vạch trắng hoặc vàng quanh bao gan do dãn mao mạch. Bên cạnh nốt tạo thành ‘hình giun’ gồ lên với màu sắc giống như nốt và cũng quan sát được qua soi ổ bụng, bao gan dày lên ở những mức độ khác nhau, một số trường hợp bệnh nhân có nhu mô gan rất dày, dưới bao gan là mạch bạch huyết dãn rộng. Các hạch bạch huyết quanh gan có thể sưng to, có nhiều lỗ hổng dưới bao gan được lấp đầy bởi tổ chức hoại tử và điều này thấy rõ qua giải phẩu tử thi. Một vài dấu vết đỏ có mặt từ nốt màu xám bạc và đã xơ hóa, dấu vết lan rộng từ bao gan tới các hốc dưới bao (Chenvà Mott, 1990). Hầu hết các tổn thưng nằm dưới bao gan có kích thước trung bình là 20mm (Acosta-Ferreira.,1979), ngoại lệ có ca xuất hiện các tổn thương sát bao gan đi kèm kích thước lớn hơn; có trường hợp nằm thành phúc mạc và mặt sau gan màu vàng và có dịch ổ bụng, khi ổ tổn thưng nằm trong lách thì lách có thể to hoặc không to, nhưng đặc biệt là chúng ta không bao giờ thấy dấu hiệu tăng áp tĩnh mạch cửa (Chen và Mott., 1990; H.H.Quang và cs.,2006; Boray và cs, 2000).
Thể SLGL bán cấp thường liên quan đến sự xâm nhập của một lượng lớn metacercariae, biểu hiện thường là màng niêm mạc nhợt nhạt, cơ thể suy mòn và khô đét.SLGL thể mạn tính biểu hiện hơi khác, ở đó ống mật xơ hóa và dày lên, có thể bị tắc nghẽn do sán bít tắc và hóa nhầy biểu mô; nhu mô bị tổn thưng dẫn đến hóa mô hạt hoặc tạo calci hóa vách đường mật (thường gặp trên súc vật hơn là trên người). Nói chung, sự có mặt của SLGL gây tăng sản tế bào tuyến và phản ứng viêm quanh ống mật làm xơ hóa; các ống mật có thể xơ hóa, dãn nở hoặc co thắt khiến cho sán nếu số lượng lớn rất dễ nghẹt, càng về sau thì đường mật càng bị dãn, phồng lên và thành dày, phù nề (Chen và Mott.,1990; Riedt và cs.,1995). Một số trường hợp nặng còn phát hiện thấy nhiều sán mắc kẹt trong ống tụy, gây viêm tuyến tụy (H.H.Quang và L.T.Q.Anh.,2005). Nhiều nốt màu trắng bạc gây dính túi mật với các tổ chức lân cận (Acosta-Ferreira.,1979). Niêm mạc túi mật có thể xuất hiện nhú, thành túi mật dày lên đến tận lớp cơ và xơ lan tỏa, có những nốt tăng sinh biểu mô. Toàn bộ các lớp của thành đường mật chứa tế bào lympho, tương bào và bạch cầu ái toan và một vấn đề đặc biệt hay gặp các bệnh sỏi đi kèm hoặc rối loạn nhu động ruột không do sỏi (Chen et Mott.,1990; Arjona và cs.,1995; H.H.Quang và cs., 2005, 2006).
Các dấu vết do sán cư trú hoặc sán trực tiếp gây tổn thương tìm thấy trong gan, các tác giả tìm thấy nhiều tinh thể Charcot-Leyden và bạch cầu ái toan trên thành vách đó. Trong lòng của các ổ là những tế bào chết bao gồm tế bào gan, tế bào xơ và hồng cầu, có sự xâm nhập của bạch cầu ái toan xung quanh vết. Tại các tổn thưng muộn hơn, chúng ta tìm thấy đại thực bào, tế bào lympho, bạch cầu ái toan và tổ chức xơ; vôi hóa trung tâm đôi khi nhìn thấy có tổ chức hoại tử, vôi hóa có thể xảy ra xung quanh vết sán chết (Acosta-Farreira., 1979). Một số u hạt cũng đã được công bố (Pena Sanchez và cộng sự.,1982; Pink và cs.,1984; Chen và Mott.,1990; Sapunar và cs.,1992). Tế bào đa nhân khổng lồ bao quanh trứng sán với nhiều lớp tế bào biểu mô, tổ chức lympho bào và bạch cầu ái toan. Tĩnh mạch cửa phồng lên và phù nề với sự thâm nhiễm của tế bào lympho và bạch cầu ái toan. Đường mật nở to ra, tăng sinh tổ chức xơ, động mạch bị tổn thương và tĩnh mạch có thể bị cục máu đông vón tắc (Chen và Mott.,1990). Liên quan giữa tổn thương giải phẩu bệnh của sán lá gan lớn với ung thư gan nguyên phát đến thời điểm này chưa được chứng minh, mặc dù thực tế đã có những trường hợp bệnh nhân vừa có tổn thương gan do SLGL vừa có khối ung thư gan (H.H.Quang, 2004)
SLGN và mối liên quan với ung thư đường mật (cholangiocarcinoma) là được chứng minh rõ ràng. Tuy nhiên, đến nay theo tài liệu y văn thế giới và trong nước cho biết chưa có dữ liệu và bằng chứng nào chứng minh khoa học về bệnh SLGL có thể gây ung thư gan mật. Do vậy, anh và gia đình có thể yên tâm vì người nhà mắc và được điều trị dứt điểm là bệnh SLGL tại viện, thời điểm năm2006. Kính chúc anh và gia đình khỏe và thành đạt.
10. Hoàng Thị Hằng; nhungnguoiban_vn2008@yahoo.com.vn; Lai Cách -Cẩm Giàng - Hải Dương, 0984.964.360
Hỏi: làm ơn cho tôi biết việc sử dụng thuốc diệt muỗi để phun có tác dụng trong vòng 1 năm có độc gì cho con người không ? Nếu có, thì sự độc hại đó có ở mức độ cho phép không ?
Trả lời:Xin cảm ơn và chia sẻ với câu hỏi của chị, song rất tiếc chúng tôi không biết chị và gia đình dự định dùng loại thuốc/ hóa chất nào để “phun diệt muỗi” để chúng tôi đưa ra các lời khuyên dùng hợp lý và an toàn. Vì hiện tại trên thị trường có rất nhiều loại thuốc diệt, xua muỗi khác nhau với chất lượng và tính đặc hiệu khác nhau, cách dùng khác nhau cũng như khoảng thời gian hiệu quả từ khi phun đến khi hết tác dụng thay đổi theo từng loại thuốc; hiệu quả của hóa chất hoặc thuóc ấy còn tùy thuộc từng loại chất liệu làm nhà của chị (tre, nứa, đắp đất sét, xây gạch có tô/trát xi măng hay không tô xi măng). Ngoài ra còn thù thuộc vào độ pha thuốc (loãng hay đặc) sẽ cho hiệu lực với muỗi cũng khác nhau và độc tính của từng loại thuốc không những con người mà còn ảnh hưởng đến các vật nuôi trong nhà (chó, mèo) và môi trường xung quanh cũng khác nhau nếu chúng ta không thực hiện biện pháp an toàn trong sinh học của từng loại thuốc/ hóa chất.
Do nhiều vấn đề khác nhau và những lý do an otàn trong sử dụng hóa chất như thế, chúng tôi khuyên bạn nên đến Trung tâm Phòng chống sốt rét hoặc Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Hải Dương (nơi chị đang cư trú) để được tư vấn dùng thuốc phòng trừ muỗi an toàn và hợp lý. Kính chúc chị và gia đình khỏe và sẽ nhận được những thông tin thấu đáo nhất.