Nguyễn Thị Thu- thuthulovely90@gmail.com- Đak lak
Hỏi: Em chào các bác sĩ em tên Nguyễn Thị Thu đang là sinh viên học tại TP.HCM hôm nay em xin hỏi một việc các bác sĩ giải đáp giùm em. Hồi nhỏ em hay nổi mày đay xong lớn lên thì em hết nhưng mấy năm gần đây em hay bị nổi hột đỏ nổi ngứa khắp mình đặt biệt là khuỷu tay, bụng và trên mặt nửa, nhưng nặng nhất vẫn là ở bụng, có nhiều lần em tới BV da liễu để khám, bác sĩ nói em bị viêm da dị ứng rồi cho thuốc uống và bôi thuốc nữa nhiều đợt đi khám rồi cũng đỡ nhưng lâu lâu lại bị ngứa lại, trước tiên là ở bụng rồi những chổ cũ, rồi lại tới bệnh viện tiếp thì cũng cho thuốc rồi lại bôi thuốc có cả thuốc tím nữa nhưng vẫn không bớt hẵn nhiều lần như vậy nên em không đi khám nữa tại em sv nên mỗi lần đi rất khó khăn và em dùng BHXH để khám nên... ở nhà em cũng hay gửi thuốc bắc cho em uống nhưng cũng vậy không đỡ gì hết, mà thường trời nắng gắt thường em bị ngứa nhiều hơn và nổi từng chàm rất là khó chịu. Nhờ các bác sĩ cho em lời khuyên chỉ chổ cho em đi chữa bệnh với. Em cảm ơn nhiều!
Trả lời: Phải nói rằng bạn đã kể cho chúng tôi nghe bênh sử của bạn rất chi tiết và đặc biệt là các vị trí nổi mẩn khá điển hình cho một hội chứng ấu trùng di chuyển do giun sán và mọt số bệnh lý giun sán khác. Bệnh có thể âm thầm không triệu chứng, có thể biểu hiện triệu chứng rầm rộ và đôi khi gay ảnh hưởng không ít đến sinh hoạt và chất lượng cuộc sống của bạn nữa.
Do đó, chúng tôi khuyên bạn nên đi đến một cơ sở khám chuyên khoa về da liễu (BV Phong và Da liễu Trung ương Quy Hòa hoặc BV Da liễu thành phố Hồ Chí Minh) hoặc ký sinh trùng (Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn hoặc BV Bệnh nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh).
Khi đó, các bác sĩ sẽ cho em làm các xét nghiệm chuyên khoa da liễu và ký sinh trùng, nếu phát hiện được tác nhân gây bệnh trên thân thể của em thì bác sĩ sẽ chỉ định đúng thuốc kịp thời và đúng chỉ định cũng như hợp lý cho bạn. Chúc bạn mau chóng thoát khỏi các cơn dị ứng, mày đay gây khó chịu từ lâu nay.
Huỳnh Toàn- huynhtoan1963@.yahoo.com.vn- Phổ văn- Đức phổ - Quảng Ngãi
Hỏi: Chào bác sĩ! Tôi năm nay 48 tuổi có triệu chứng ngứa ở mắt cách đây 3 tháng khám và xét nghiệm tại Viện KST Qui Nhơn kết quả bị nhiễm giun lươn, bác sĩ cho thuốc giun Albendazol 400mg (28 viên) và một số thuốc khác. Sau thời gian uống thuốc tôi thấy bớt ngứa và sức khỏe tốt hơn. Nay tái khám kết quả không còn nhiễm giun nữa. Nhưng không hiểu sao bác sĩ khám vẫn kê đơn thuốc gồm 14 viên Abendazol và nhiều loại thuốc khác như: Glora, Pondil, Honymarin, Meyerbinyl mỗi loai 40 viên. Thưa bác sĩ uống nhiều như thế có hại gì không? Nhờ bác sĩ trả lời giúp. Chào bác sĩ xin cảm ơn!
Trả lời: Thành thật chia sẻ và xin lỗi cùng bạn vì đã trả lời thư muộn đến với bạn. Sau thời gian uống thuốc rồi, bệnh thuyên giảm rõ và kết quả xét nghiệm đã hết (nghĩa là âm tính). Về nguyên tắc điều trị bệnh giun sán là không cần dùng thêm “thuốc đệm” như trường hợp một số vi khuẩn khác để phòng ngừa tái phát (chẳng hạn vi khuẩn Helicobacter pylori trong viêm loét dạ dày tá tràng).
Tuy nhiên, trong trường hợp của bạn không hiểu tại sao bác sĩ vẫn tiếp tục kê thuốc bác sĩ vẫn cho Glora, Pondil, Honymarin, Meyerbinyl mỗi loai 40 viên là để làm gì, có lẽ là có ý của bác sĩ kê đơn đó bạn ạ. Bạn xem đơn thuốc đó là của bác sĩ tên gì và có thể điện thoại liên quan trực tiếp với bác sĩ đó để thấu hiểu hơn căn bệnh của bạn và có nên dùng thêm thuốc nữa hay không?
Bạn nên nhớ rằng các thuốc Glora, Pondil, Honymarin, Meyerbinyl không phải là thuốc bổ, lại càng không phải là thuốc để phòng bệnh giun sán cho bạn và tất nhiên có những tác dụng phụ nhất định, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng nữa. Nên trước khi uống thuốc bạn cũng nên cân nhắc và gọi điện thoại đến bác sĩ điều trị để xin tư vấn nhé!
nguyễn chí nghĩa-singhia.nguyen@gmail.com-krong nô Đăk Nông
Hỏi: Con tôi bị ngứa đi khám BS gọi tổ đĩa ở đôi bàn tay và đôi bàn chân, uống thuốc đỡ thời gian, bị ngứa lại cả trong người tay và chân. Mỗi lần ngứa nó có mụn nước. Vậy cho tôi xin hỏi BS Viện sốt rét - kí sinh trùng - Quy Nhơn cần phải điều trị như thế nào?
Trả lời:
Thành thật chia sẻ với bệnh cảnh của con bạn là đang bị ngứa và bị tổ đĩa lòng bàn tay và bàn chân, xin lưu ý với bạn đây là một bệnh da có biểu hiện đa dạng, khó chữa khỏi và thường hay tái phát trong một khoảng thời gian ngắn. Gay khó chịu trong sinh hoạt và vấn đề thẩm mỹ. Để làm rõ căn bệnh cũng như cách chữa trị cho con bạn về bệnh tổ đĩa này, chúng tôi xin gởi đến bạn bài viết của bác sĩ Lê Đức Thọ, trưởng khoa Da liễu bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn làm rõ căn bệnh này:
Tổ đỉa có tên khoa học là Dysidrose, là một thể đặc biệt của bệnh chàm, khu trú ở lòng bàn tay, bàn chân và rìa các ngón, Bệnh thường gặp ở tuổi từ 20 đến 40, nam nữ có tỷ lệ bằng nhau
Nguyên nhân bệnh rất đa dạng và phức tạp, một số yếu tố liên quan như dị ứng với hóa chất trong sinh hoạt, trong nghề nghiệp như xăng dầu, xà phòng, xi măng, do nhiễm khuẩn trong khi tiếp xúc với bùn đất, nước bẩn hay gặp nhất là do liên cầu trùng trong thể tổ đỉa nung mủ; do dị ứng với nhiễm nấm ở kẽ chân; do thay đổi thời tiết theo mùa, do ảnh hưởng của ánh sáng và nóng ẩm.
Biểu hiện bệnh
Bệnh biểu hiện với sang thương là mụn nước khu trú ở lòng bàn tay, bàn chân, đặc biệt ở mé bên của ngón tay, lòng bàn tay, mặt trên - mặt bên và mặt dưới ngón chân, lòng bàn chân. Bệnh không bao giờ vượt lên mé trên cổ tay và cổ chân. Mụn nước ăn sâu vào thượng bì làm da nổi gồ lên, hình tròn, rải rác hay xếp thành chùm, sờ vào mụn nước thấy chắc, cảm giác như có một hạt gì nằm xen trong da, kích thước khoảng 1 - 2mm, có thể trở thành bóng nước nhất là ở lòng bàn tay, bàn chân. Các mụn nước thường xẹp đi và teo đét chứ không tự vỡ, thường có màu hơi ngà vàng, khi bong ra để lộ một nền da hồng, hình đa cung hoặc tròn, có viền vảy xung quanh. Kèm theo rất ngứa, càng gãi càng ngứa, bệnh thường kéo dài khoảng 2 đến 4 tuần, tróc vảy rồi lành và bệnh hay tái phát.
Triệu chứng
-Mụn nước màu trắng trong là triệu chứng chính, kích thước nhỏ khoảng 1mm, nằm sâu, chắc, khó vỡ, thường tập trung thành từng chùm hơi gồ trên mặt da. Đôi khi nhiều mụn nước kết tụ thành bóng nước lớn.
-Vị trí: 90% là gặp ở lòng bàn tay và các rìa ngón tay hoặc là chỉ gặp một trong hai chỗ đã nói trên, còn ở lòng bàn chân và rìa ngón chân thì ít gặp hơn. Tổn thương thường đối xứng và bệnh thường không bao giờ vượt quá cổ tay, cổ chân.
-Bệnh thường xảy ra từng đợt, trước khi nổi mụn nước thường có cảm giác ngứa, rát, một số trường hợp kèm tăng tiết mồ hôi. Mụn nước của bệnh tổ đỉa thường có xu hướng khô ít khi tự vỡ, rồi để lại một điểm dày sừng màu vàng đục, tróc da.
-Khi bị nhiễm khuẩn thì mụn nước hoặc bóng nước sẽ đục, sưng đỏ kèm theo sưng hạch bạch huyết ở vùng kế cận và người bệnh nóng sốt.
Bệnh tổ đỉa được các thày thuốc ngoài da coi như một loại chàm (eczema). Nhưng khác eczema, tổ đỉa chỉ nổi ở lòng bàn tay, lòng bàn chân và ria ngón tay chân, còn eczema thì có thể gặp ở bất cứ vị trí nào trên da.
Mặt khác, mụn nước tổ đỉa thường to, sâu, chắc, khó vỡ hơn mụn nước eczema. Cũng như eczema, tổ đỉa gây ngứa nhiều, bệnh nhân gãi, chà xát làm vỡ mụn nước, dễ thành nhiễm khuẩn phụ, sưng tấy, nổi hạch, có khi phát sốt. Bệnh tiến triển dai dẳng, hay tái phát theo chu kỳ (dân gian gọi là theo tuần trăng) thành mạn tính, kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, trở ngại nhiều cho sinh hoạt, lao động nếu không được điều trị đúng đắn.
Nguyên nhân gây bệnh
Nguyên nhân gây bệnh tổ đỉa rất phức tạp. Dưới đây là một số nguyên nhân thường gặp:
-Dị ứng với hóa chất trong sinh hoạt, trong nghề nghiệp như xăng, dầu mỡ, thuốc kháng sinh, xà bông thơm, xà phòng giặt, chất tẩy rửa, dầu thơm, xi măng, vôi v.v...
-Do nhiễm khuẩn trong khi làm việc, tiếp xúc với đất, nước bẩn.
-Dị ứng với nấm kẽ chân.
-Do tăng tiết mồ hôi tay chân liên quan đến rối loạn thần kinh giao cảm, làm việc trong môi trường nóng ẩm.
-Những yếu tố sau đây có thể thúc đẩy tình trạng bệnh khởi phát hoặc nặng hơn:
+Yếu tố tại chỗ: chất tẩy rửa, xà phòng, dung môi, giày dép chật, chất liệu da, đổ mồ hôi nhiều…
+Yếu tố trong không khí: khói thuốc, lông chó mèo, đất bùn, mạt bụi nhà…
+Nhiễm trùng (tụ cầu vàng)
+Thức ăn: hải sản, trứng, thịt gà, bò, đậu phộng, đậu nành, đồ lên men, tinh bột…
Điều trị
Điều trị bệnh tổ đỉa là nhằm làm cho da lành như bình thường, nhưng bệnh có thể tái phát lại nếu hiện diện các yếu tố thúc đẩy bệnh như đã kể ở trên. Cũng như đối với eczema, điều trị tổ đỉa thường khó khăn. Hai yếu tố nhiễm khuẩn, dị ứng thường kết hợp. Tùy từng trường hợp, thày thuốc sẽ phải dùng đến các thuốc chống nhiễm khuẩn, chống nấm, chống dị ứng toàn thân hoặc tại chỗ. Phải điều tra các chất gây dị ứng để loại trừ. Nếu do rối loạn hấp thụ vitamin, cần bổ sung vitamin thích hợp ( vitamin PP, C, B6 ).
-Tránh bóc vảy, chọc lễ mụn. Nên rửa tay chân nhẹ, không cào gãi,làm xây xước các mụn nước đề phòng nhiễm khuẩn phụ. Không nên ngâm tay nhiều làm ẩm ướt lớp sừng, tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm phát triển mạnh hơn.
-Tránh tiếp xúc xăng dầu, mỡ, xà phòng, hóa chất, thuốc tẩy rửa. Khi cần phải đeo găng bảo vệ.
-Cắt ngắn móng tay và giữ khô, sạch da lòng bàn tay, lòng bàn chân
Điều trị tại chỗ
-Ngâm rửa tay chân với thuốc tím pha loãng 1/10.000có màu hồng.
-Chấm thuốc BSI 1% - 3% khi chỉ có mụn nước đơn thuần.
-Khi tổ đỉa đã nhiễm khuẩn có mủ hoặc bóng nước to thì chích cho vỡ ra, sau đó bôi thuốc chống nhiễm khuẩn như Milian, Eosine.
-Chiếu tia tử ngoại tại chỗ.
Điều trị toàn thân
-Uống thuốc chống dị ứng thông thường như: Chlopheniramine, Cetirizine, Loratadine…
-Dùng kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn;
-Dùng thuốc kháng nấm nếu bị nhiễm nấm.
Chúng tôi hy vọng với phần trả lời câu hỏi trên, đã làm cho bạn và con bạn hiểu rõ hơn về căn bệnh “khó chịu” này đã từng làm cho hàng triệu người trên thế giới khó chịu chứ không riêng gì bạn!
hà tuyên-tuyenbc_cntt@yahoo.com- Trần Phú - Quảng Ngãi
Hỏi: Tôi đau nhức hạ sườn bên phải điều trị thần kinh liên sườn nhiều lần nhưng không khỏi. Gần đây, đi xét nghiệm kết quả bị nhiểm ấu trùng sán lợn. Có phải do nhiểm ấu trùng sán lợn mà gây đau như thế không? Xin hỏi BS cách điều trị thế nào? Xin cảm ơn BS.
Trả lời: Câu hỏi của bạn rất hay và làm chúng tôi suy nghĩ về mối liên quan giữa triệu chứng đau vùng thần kinh liên sườn của bạn với bệnh ấu trúng sán dây lợn hay không? Sau khi download nhiều tài liệu liên quan (có thể vẫn chưa thấu đáo hết tài liệu y văn), chúng tôi vẫn không thấy một mối liên quan nào đặc biệt giữa hai bệnh này. Điều này có thể là xuất hiện 2 triệu chứng đồng thời trên một bệnh nhân mà thôi.
Biết rằng bệnh ấu trùng sán dây lợn có nhiều thể, trong đó có thể thần kinh có thể các nốt của ấu trùng chén ép hoặc gây block synap thần kinh để dẫn đến một số triệu chứng trên cơ thể bạn hay không, chúng tôi vẫn khó có thể khẳng định được chính xác.
Rất tiếc trong câu hỏi của bạn không mô tả các dấu hiệu đang biểu hiện trên cơ thể bạn, cũng như kết quả một số xét nghiệm khác như công thức máu, cần chú ý đến chỉ số bạch cầu ái toan (eosin), chỉ số nồng độ IgE, …cũng như hiệu giá kháng thể của xét nghiệm miễn dịch ấu trùng sán dây lợn là bao nhiêu? Hình ảnh trên phim chụp CT scanner hay MRI có hay không các thương tổn ở sọ não và da niêm,…
Như vậy để làm rõ căn bệnh của bạn, chúng tôi khuyên bạn nên đi khám tại cơ sở y tếchuyên khoa tại thành phố Hồ Chí Minh để khẳng định bệnh và điều trị sớm bạn nhé!
Đồng Thị Thanh Dung- chanhconuong77@yahoo.com- Quảng Nam
Hỏi: Xin chào các anh, chị. Cho em hỏi trong ốc Melanoides tuberculatus có bao nhiêu dạng Cercaria của sán lá nào? Để phân biệt các dạng cercaria của sán lá gan lớn. Em có thể tham khảo những tài liệu nào? Khi nghiên cứu về sán lá gan lớn Fasiola gigantica người ta thường chú ý đến giai đoạn cercaria trong ốc Lymnaea, mà các giai đoạn ấu trùng khác thường ít đề cập đến. Phải chăng giai đoạn này có ý nghĩa gì đặc biệt? Rất mong anh chị giúp em trả lời những câu hỏi này. Em xin chân thành cảm ơn! Chúc anh, chị sức khỏe.
Trả lời: Cảm ơn câu hỏi rất hay của em, trong ốc Melanoides tuberculatus có bao nhiêu dạng cercaria của sán lá nào, câu hỏi này có vẻ chưa rõ ràng bạn ạ. Nếu được bạn có thể đặt lại câu hỏi một cách cụ thể hơn được không nhé. Ốc này còn có tên “red-rimmed melania”, tên khoa học là Melanoides tuberculata, là một loài ốc nước ngọt có một nắp, một hình thái sinh parthenogenetic, nhuyễn thể gastropod trong nước thuộc họ Thiaridae.
Tên thông thường gọi là do trên thân ốc có những chấm màu hơi đỏ khác với vỏ sò có các chấm màu xanh. Đôi khi người ta gọi là Melanoides tuberculatus, nhưng điều này không đúng vì Melanoides (Olivier, 1804) được biết là một ốc thuộc giống cái kể từ khi chúng kết hợp với một loài fasciolata giống cái đặc biệt theo mô tả gốc trước đây. Loài ốc này có hình thuôn dài, vỏ hình nón, thường có màu nâu nhạt, có một vài chấm màu hơi đỏ. Một cái nắp ở trên. Chiều dài vỏ trung bình khoảng 20–27 mm hay 30–36 mm, nhưng một số trường hợp ngoại lệ có thể lên đến 80 mm.
- Về sự phân bố có tính bản địa: đối với loại ốc này thì chúng có phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở bắc Phi và Nam Á.
+ Tại châu Phi: chúng có mặt tại Algeria, Burundi, Congo, Ai Cập, Eritrea, Ethiopia, Kenya, Libya, Malawi, Morocco, Mozambique, Namibia, Niger. Tại Nam Phi (Eastern Cape, Free State, Gauteng, KwaZulu-Natal, tỉnh Limpopo), Senegal, Sudan, Swaziland, Tanzania, Tunisia, Zimbabwe;
+ Tại châu Á: chúng có mặt ở Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ (kể cả đảo Andaman), Nhật Bản, Lào, Malaysia (Peninsular Malaysia), Nepal, Saudi Arabia, Sri Lanka, Việt Nam, Thailand.
- Về sự phân bố không mang tính bản địa (nonindigenous distribution): các loài ốc này có phân bố không bản địa tại các quốc gia như Cuba, Mỹ, châu Mỹ Latinh, Brazil, Netherlands, New Zealand, Venezuela, Dominica, Trinidad.
Loài này cũng có thể tìm thấy trong các vùng mang tính nhân tạo như có môi trường nước nhà kính và các biotopes: Czech, Đức, Anh, Slovakia, ….
Về lây truyền bệnh, bản thân ốc Melanoides tuberculata được biết là trung gian truyền bệnh một số ký sinh trùng có thể gây nguy hiểm cho con người. Pinto và De Melo (2011) đã tổng kết có ít nhất 37 loài ký sinh trùng có liên quan qua trung gian ốc này.
11 trong số các loài sán lá đó cũng là bệnh ký sinh trùng ở người. các ốc này đóng vai trò vật chủ trung gian thứ nhất cho bệnh ký sinh trùng, bao gồm: Clonorchis sinensis, Paragonimus westermani, Metagonimus, Diorchitrema formosanum, Opisthorchis sinensis, Philophthalmus spp., Haplorchis spp., Centrocestus formosanus, Schistosoma spp.
Để phân biệt các dạng cercaria của sán lá gan lớn, em có thể tham khỏa các tài liệu liên quan đến bệnh sán lá gan lớn trên gia súc hoặc động vật (animal fascioliasis) và trên người (human fascioliasis) qua các trang website của thú y và của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đều có thể lấy tài liệu chuyên sâu được;
Khi nghiên cứu về sán lá gan lớn Fasiola gigantica người ta thường chú ý đến giai đoạn cercaria trong ốc Lymnaea, mà các giai đoạn ấu trùng khác thường ít đề cập đến. Phải chăng giai đoạn này có ý nghĩa gì đặc biệt? Có lẽ đây là suy nghĩ của cá nhân bạn vì nếu một ai đó chú ý nghiên cứu đến giai đoạn nào đó của ấu trùng trong chu kỳ sinh trưởng và phát triển của sán lá gan lớn Fasciolae spp thì họ lại đi sâu và mô tả kỹ về giai đoạn đó, riêng bệnh sán lá gan lớn ở người thì người ta lại quan tâm đến cả 3 giai đoạn ấu trùng đó là miracidium, cercaria và metacercaria và xem cả 3 giai đoạn ấu trùng đó đều quan trọng cả bạn ạ và bản thân việc phòng chống cũng cần cân nhắc đến các khâu này, xem thử đánh vào mắc xích nào là an toàn cho con người và cho cả môi trường.
trung hiếu-mr.cohju@yahoo.com- chủ cửa hàng gia lâm_hà nội
Hỏi: Nhà tôi bán ngô, thóc, gạo nên có rất nhiều gián mà làm nhiều cách vẫn không hết. Cho tôi hỏi làm cách nào để diệt hết bọn gián đi.
Trả lời: Với câu hỏi của bạn liên quan đến tiêu diệt gián trong gia đình, chúng tôi xin giới thiệu chị hai cán bộ thuộc khoa Côn trùng và Trung tâm Dịch vụ khoa học kỹ thuật của Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn đã từng có kinh nghiệm trong việc phòng chống vector, côn trùng và tất nhiên có cả gián nữa. Bạn có thể liên hệ để giải đáp thắc mắc cho bạn nhé!
1. Ths. Nguyễn Xuân Quang, Trưởng khoa côn trùng, Số di động: 0913438557
2. CN. Bùi Quốc Đạt, Trung tâm Dịch vụ khoa học kỹ thuật của Viện, số di động: 0905.450589
Kinh chúc bạn sức khỏe và sớm đẩy các loài gián ra khỏi nhà!
lanhdien_cunghanbang@yahoo.com
* Ngày 10/5/2010: Xét nghiệm tại Đại học Phạm Ngọc Thạch: Toxocara canis: 1.225 OD Dương tính (ngưỡng dương tính OD>1.0),ASAT (GOT): 45.5 U/L; ALAT (GPT): 22.6 U/L; Uống thuốc: invermectin 3mg: 3 viên
* Ngày 18/9/2010: Xét nghiệm tại Viện Sốt rét Ký sinh trùng Côn trùng Quy Nhơn: Toxocara canis: âm tính;ASAT (SGOT): 32 U/L; ALAT (SGPT): 28 U/L; * Ngày 27/8/2011 xét nghiệm Trí Đức;Toxocara canis: (HGKT 1/800) Dương tính;Biểu hiện bệnh nhân (nam giới, 28 tuổi, nặng 45kg, cao 1m 67): nổi mụn nhỏ nơi lòng bàn tay và ngón tay; mất ngủ; giảm cân; nhức đầu;
Tại sao xét nghiệm âm tính rồi bây giờ lại dương tính lại? điều trị cách nào? Có thể uống toa thuốc:
- lormeg 10mg: 10v, uống tối 1 viên
- fmarin 5mg: 20v, uống sáng 1 viên tối 1 viên
- sanfocef 500mg: 10v, uống sáng 1 viên tối 1 viên
- albendazle 400mg: 42v, uống sáng 1 viên tối 1 viên
Tôi xin cảm ơn!
Trả lời: Xin cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi chi tiết như trên, song óc một điều là bạn không cho chúng tôi biết bạn đã dùng thuốc Ivermectine bao nhiều lần hay chỉ là duy nhất ở trên. Thứ hai, chúng tôi muốn biết trước khi dùng thuốc bạn có triệu chứng gì hay không mà chỉ dựa vào xét nghiệm giun đũa chó là điều trị; thứ ba là sau khi bạn xét nghiệm tại Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn là âm tính sao lại sau đó xét nghiệm tại Trí Đức lại dương tính.
Chúng tôi cũng mong muốn giải thích với bạn kết quả xét nghiệm tại trí Đức là âm tính vì 1/800 chính là hiệu giá kháng thể (HGKT) này dương tính ngưỡng xét nghiệm chứ không phải dương tính bệnh vì trong quy định kết quả xét nghiệm ELISA đối với giun đũa chó:
-Khi hiệu giá kháng thể (HGKT) ≤ 1/800 nghĩa là âm tính;
-Khi hiệu giá nằm trong khoảng1/800 < HGKT < 1/1.600 là ngưỡng nghi ngờ;
-Khi hiệu giá kháng thể (HGKT) ≥ 1/1600 nghĩa là xem dương tính.
Nói chung, với kết quả xét nghiệm sau khi điều trị của bạn như vậy là có đáp ứng thuốc, nhưng có một điều chúng tôi nhắc cho bạn hiểu là sau khi âm tính rồi cũng có thể dương tính lại là chuyện bình thường vì khả năng bạn có thể bị nhiễm trùng lại ấu trùng giun đũa chó trong quá trình sau điều trị kia mà.
Có lẽ bạn đã hiểu được đầy đủ tiến tình điều trị và diễn tiến bệnh cũng như diễn giải kết quả xét nghiệm của ấu trùng giun đũa chó. Thân chúc bạn khỏe!
dinhtaytran@gmail.com.vn- bình định
Hỏi: Kính chào ban biên tập! Anh chị có thể cho em biết giun đũa chó, mèo lây sang người qua con đường nào? Chúc ban biên tập sức khỏe!
Trả lời: Bệnh giun đũa chó mèo ở người được xem là một bệnh truyền từ động vật lây sang người. Để hiểu rõ quá trình lây truyền và tiềm năng lây nhiễm không phải lúc nào cũng có, chúng tôi xin gởi đến bạn 2 chu kỳ sinh phát triển bệnh đối với chó và ở người:
Đối với bệnh giun đũa chó trên chó:
Về phương thức lây truyền bệnh và chu kỳ sinh học cũng như phát triển của loài giun tròn Toxocara canis hoặc Toxocara cati đến này chúng tôi biết có 4 cách lây nhiễm liên quan đến loài giun đũa chó mèo này. Thể cơ bản nhất là điển hình cho tất cả dạng giun đũa ascaroides, trứng chứa ấu trùng giia đoạn 2 (Larval 2_L2) (hay còn gọi là giai đoan phát triển của ấu trùng giai đoạn 2), gây nhiễm, ở điều kiện nhiệt độ và độ ẩm tối ưu thì khoảng mất 4 tuần sau khi đào thải qua phân vào trong môi trường. Sau khi bị tiêu hóa, chúng sẽ đẻ trong ruột non, ấu trùng L2 chu du khắp dòng máu qua tĩnh mạch cửa đến gan và phổi. Các con đường hay lộ trình di chuyển như thế được biết hay thường gọi là di chuyển của ấu trùng qua phổi-gan-ruột (entero-hepatic-pulmonar larval migration). Sự rụng lông lần thứ 2 xảy ra trong phổi, và ấu trùng giia đoạn 3 giờ đây đi quay trở lại khí quản và vào trong ruột non - ở đó hai giai đoạn rụng lông lần cuối cùng sẽ xảy ra. Thể nhiễm này thường xảy ra chỉ trên chó đến 3 tháng tuổi.
Trên các con chó lớn hơn, hình thức di chuyển này xảy ra ít hơn và hình như đến tháng thứ 6 tình huống này không còn xảy ra nữa. Thay vì, ấu trùng L2 chu du đến nhiều cơ quan gồm có gan, phổi, não, tim, hệ cơ xương cũng như thành ruột và thành các đoạn tiêu hóa khác. Các con chó cái mang thai, quá trình nhiễm theo thế hệ cha mẹ xảy ra khi ấu trùng trở nên di động, khoảng chứng 3 tuần trước khi sinh con (parturition) và di chuyển đến phổi của bào thai - ở đó chúng phát triển thành ấu trùng giai đoạn 3 (trước khi sinh).
Những con cho con mới sinh chu kỳ hoàn thành khi ấu trùng di chuyển qua khí quản vào trong thành ruột, ở đó quá trình rụng lông cuối cùng xảy ra. Một khi bị nhiễm, một con chó cái sẽ thường nuôi dưỡng đủ ấu trùng cho quá trình nhiếm tiếp theo, thậm chí nếu chưa bao giờ nhiễm lại. Một vài ấu trùng giai đoạn thể ngủ của chó cái đi xuyên qua thành ruột, ở đó chúng rụng lông thành thể trưởng thành, do vậy dẫn đến một quá trình đẻ trứng mới chứa ấu trùng giai đoạn một.
Các con chó con bú mẹ có thể bị nhiễm do sự có mặt của ấu trùng giai đoạn 3 trong sữa trong 3 tuần đầu cho chó con bú. Không có dự di chuyển trong con chó con thông qua con đường này. Ấu trùng giai đoạn 2 cũng có thể bị tiêu hóa bởi nhiều động vật ở đó nó ở trong giai đoạn thểngủ bên trong mô động vật cho đến khi vật chủ trung gian bị ăn bởi chó, khi đó sự phát triển tiếp theo sau được xác định đối với đường tiêu hóa.
Đối với bệnh giun đũa chó trên người:
Lây truyền bệnh giun đũa chó mèo ở người thường thông qua ăn phải trứng giia đoạn nhiễm. các trứng này đi ra từ phân mèo và phân chó, nhưng thói quen thải phân của chó gây ra lây truyền bệnh T. canis thường gặp hơn là lây truyền qua mèo loại T. cati. Cả trứng Toxocara canis và Toxocara cati đòi hỏi ủ bệnh mất 1 tuần bên ngoài vật chủ trước khi chúng trở nên nhiễm, vì thế các trứng trong phân tươi vừa ra không thể gây bệnh giun đũa chó mèo.
Nhiều vật thể và bề mặt có thể trở nên bị nhiễm trứng Toxocara. Ruồi ăn phân có thể lây truyền trứng Toxocara lên bề mặt hoặc thức ăn. Các trẻ em nhỏ cũng dễ bị nhiễm do chơi với các đồ vật nhiễm mầm bệnh vào trong miệng của chúng hoặc ăn có thói quen ăn đất cũng là một nguy cơ cao để nhiễm bệnh và phát triển triệu chứng. Người cũng có thể nhiễm bởi thức ăn do không rửa tay trước khi ăn.
Người không chỉ là vật chủ tình cờ của Toxocara. Ăn các thịt thỏ, thịt gà và thịt cừu chưa nấu chín, có thể dẫn đến nhiễm bệnh. Các ấu trùng đóng kén trong thịt có thể tái hoạt và di chuyển trong cơ thể người, gây nên bệnh giun đũa chó. Chú ý đặc biệt trong quá trình xử lý và nấu nướng các lòng, cổ, cánh, chân gà, vịt và gan để tránh lây nhiễm.
Về ổ chứa bệnh, chó là ổ chứa của Toxocara canis, nhưng các con chó con có nguy cơ nhiễm cao nhất lây truyền bệnh sang người. Nhiễm trùng trên hầu hết các con chó trưởng thành biểu hiện bởi ấu trùng giai đoạn 2 đóng kén.
Tuy nhiên, các ấu trùng này có thể tái hoạt trên các phụ nữ mang thai và đi qua hàng rào nhau thai để nhiễm cho chó con. Lây truyền dọc cũng có thể xảy ra thông qua sữa mẹ. Các bà mẹ nhiễm bệnh và các chó con dưới 5 tuần tuổi, thải trứng ra phân của chúng. Khoảng 50% số chó con và 20% chó trưởng thành nhiễm phải T. canis.
Mèo là vật chủ chứa đối với Toxocara cati. Cũng như T. canis, các dạng đóng kén của ấu trùng trên các con mèo mang thai hoặc đang cho con bú có thể tái hoạt động. Tuy nhiên, lây truyền theo chiều dọc chỉ có thể thông qua con đường cho con bú. Mặc dù mèo con thường có nguy cơ lây nhiễm cho người hơn mèo trưởng thành, thói quen thải phân của mèo giảm cơ hội nhiễm cho người với tác nhân T. cati.
Cảm ơn vì lời chúc của bạn, chúng tôi xin chúc bạn và gia đình khỏe mạnh, không bao giờ mắc phải giun đũa chó mèo nhé!
Bùi Thanh Hà - habuithanh28@yahoo.com.vn - cán bộ ngân hàng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi
Hỏi: Tôi thường xuyên bị ngứa, khi tắm hoặc mồ hôi ra nhiều cũng bị ngứa, chổ ngứa nổi đỏ dài và có lằn sưng sau khi gãi, tôi đã đi khám bác sỹ bảo tôi bị chứng da vẽ nổi uống thuốc 3 tháng rồi nhưng vẫn không hết, nếu uống thuốc thì đỡ đỏ và ngứa. Xin hỏi bệnh của tôi có liên quan đến sán hoặc giun khong? xin cảm ơn
Trả lời: Chứng da vẽ nổi cũng là một trong những hình thái lâm sàng của mày đay, còn mày đay do nguyên nhân gì thì chúng ta phải đi tìm nguyên nhân bạn nhé. Để biết bạn có liên quan đến nhiễm giun sán, không còn cách nào hơn là bạn nên đi khám ở chuyên khoa da liễu và bệnh ký sinh trùng để được xét nghiệm và tìm ra tung tích con gì đã làm bạn ngứa và mày đay như vậy.
Thân chúc bạn khỏe!
longlackiluc@yahoo.com - Số nhà 29, ngõ 134 Từ Liêm, Hà Nội
Hỏi: Nếu có những triệu chứng của kí sinh trùng ăn não thì phải làm thế nào hả bác sĩ?
Trả lời:
Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi nghĩ rằng có lẽ bạn vừa mới biết thông tin về loài amip Naegleria fowleri ăn não và dẫn đến tử vong nhiều ca bệnh gần đây ở Mỹ đúng không? Cũng nhân đây, chúng tôi xin chia sẻ với bạn về tổn thể căn bệnh do loài amip này để bạn cùng mọi người chia sẻ tổng thể bệnh do Naegleria fowlerigây ra cũng như cách điều trị và phòng bệnh.
Naegleria fowleri, cũng được biết như một loại amip ăn não ("the brain-eating amoeba") là một loại tác nhân sống tự do tìm thấy trong các vật thể ẩm và trong nước ngọt như ao, hồ, sông và các suối nước nóng. Ngoài ra, chúng còn tìm thấy trong các vùng đất, gần nơi thải nước của các nhà máy công nghiệp và các hồ bơi chưa khử trùng chlorid có chứa giai đoạn trùng roi tạm thời và dạngamips. Không có bằng chứng về vi trùng này sống trong nước đại dương. Nó lệ thuộc vào nhóm gọi là Percolozoa hoặc Heterolobosea. Mặc dù không phải là một amoeba thật sự, song vi trùng này thường được coi như một loài để tiện theo dõi. N. fowleri có thể xâm nhập và tấn công vào hệ thần kinh trung ương. Mặc dù điều này hiếm khi xảy ra, song nhiễm trùng như thế thường dẫn đến kết quả là tử vong cho bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong ước tính khoảng 98%. Naegleria là một loại ameba (vi sinh vật đơn bào), thường tìm thấy chúng trong các vùng nước ngọt ấm (hồ, ao, sông và suối nước nóng) và cả trong đất. Chỉ có một loài Naegleria nhiễm bệnh cho người chính là Naegleria fowleri.
Chúng ta nhiễm phải Naegleria fowleri ở những nơi nào và trong trường hợ nào?
Naegleria fowleri nhiễm vào người nhờ đường vào cơ thể thông qua mũi xoang. Điều này điển hình xảy ra khi người đi bơi trong các nơi chứa nước ngọt, ấm như sông, ao hồ. Loài amip Naegleria fowleri chu du đến mũi đến não và ở đó chúng phá hủy mô não. Bạn không thể nhiễm bởi Naegleria fowleri do uống nguồn nước nhiễm bệnh. Trong trường hợp rất hiếm, nhiễm trùng Naegleria cũng có thể xảy ra khi nước nhiễm bệnh từ các nguồn khác (như nước hồ không được xử trí sát trùng đầy đủ hoặc nước vòi < 47°C) đi vào mũi, chẳng hạn khimột người nào đó lặn và trút đầu hoặc có thói quen súc rửa không hợp lý và có thể nước nhiễm đi vào mũi xoang. Naegleria fowleri thường được tìm thấy khắp nơi trên thế giới. Tại Mỹ, phần lớn số canhiễm đều gây ra bởi Naegleria fowleri từ nước ngọt tại các vị trí phía nam. Amip có thể tìm thấy trong:
-Các vật thể trong nguồn nước ngọt ấm như sông, hồ;
-Các vùng có địa nhiệt hoặc suối nước nóng tự nhiên;
-Nước âm thải ra từ các khu hoặc nhà máy công nghiệp;
-Nguồn nước uống xuất phát từ địa nhiệt;
-Trong đất ẩm;
-Hồ bơi mà ít khi được bảo trì, bảo dưỡng và quan tâm đến vấn đề vệ sinh, nhất là vấn đề sát khuẩn;
-Nước ấm với nhiệt độ < 47°C
-Naegleria fowleri không thể tìm thấy trong nước muối, như ở đại dương.
Quá trình nhiễm bệnh
Trên người, N. fowleri có thể xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương thông qua con đường mũi, họng, đặc biệt hơn thông qua đường niêm mạc khứu giác và các đĩa có lỗ của mô mũi xoang. Sự xuyên qua khởi đầu bởi quá trình hoại tử quan trọng và xuất huyết trong các bầu khứu giác. Rồi ở đó, các amip đi dọc theo các bó sợi thần kinh thông qua sàn nền sọ thông qua các đĩa hình lỗ cây đi vào trong não.
Vi trùng bắt đầu phá hủy và ăn tế bào não từng phần một bằng cách dùng một dụng cụ hút kéo dài từ bề mặt tế bào. Rồi thì chúng gây nên bệnh, gây ra bệnh lý viêm não màng não do amoeba (primary amoebic meningoencephalitis_PAM or PAME). PAM là một hội chứng ảnh hưởng lên hệ thần kinh trung ương. PAM thường xảy ra trên những trẻ em khỏe mạnh hoặc người lớn trẻ tuổi mà không có tiền sử trước đó suy giảm miễn dịch, nhưng có tiếp xúc với các vật thể nước trong thời gian gần đây.
Amphotericin B có hiệu quả chống lại N. fowleri trên in vitro, nhưng tiên lượng vẫn còn ảm đạm đối với các trường hợp mắc PAM, và quá trình sống sót vẫn ít hơn 1%. Về cơ bản của các bằng chứng in vitro đơn thuần, khuyến cáo CDC hiện tại điều trị bằng Amphotericin B đối với PAME tiên phát, nhưng không có bằng chứng nào liệu pháp điều trị này có hiệu quả trên bệnh nhân. Điều trị phối hợp miconazole, sulfadiazine và tetracycline đã cho thấy thành công có giới hạn chỉ khi chỉ định sớm trong giai đoạn đầu tiên của nhiễm trùng.
Trong khi miltefosine điều trị có hiệu quả trên các nghiên cứu in vivo ở chuột, thì Chlorpromazine (Thorazine) chỉ ra là một chất có hiệu quả nhất, các tác giả kết luận rằng "Chlorpromazine có hoạt tính điều trị tốt nhất chống lại N. fowleri trên cả in vitro và in vivo. Do đó, chúng có thể là tác nhân hữu ích nhất trong điều trị PAME hơn là amphotericin B".
Các yếu tố bệnh sinh
Vì không có biện pháp điều trị đặc hiệu cho PAM, nên sự phát triển một liệu pháp điều trị trong phạm vi lớn là một vấn đề đang được quan tâm làm rõ. Hiện tại, nhiều công trình nghiên cứu đang được tiến hành để xác định có đặc hiệu với N. fowleri đến mức nào cũng như tác động lên bệnh sinh của chúng và nếu các yếu tố độc lực này có thể là một trong những đích ngắm đẻ cho ra thuốc mới. Một yếu tố tiềm năng trong tính di động của "amoeba" là loại Nfa1 protein. Khi Nfa1 trình diện trên các loài N. gruberi không sinh bệnh và amoebas cùng nuôi cấy với các tế bào mô đích, nó sẽ được quan sát trong đó protein nằm ở vị trí “food cup” chịu trách nhiệm cho quá trình tiêu hóa tế bào trong suốt quá trình thực bào. Tiếp tục các nghiên cứu, sựu trình diện gen Nfa1 bị knockdown được tiến hành thông qua việc sử dụng RNA interference.
Trong một thử nghiệm double-stranded RNA (dsRNA) targeting the Nfa1 sequence được giới thiệu và mức độ trình diện tiếp theo đó của các sản phẩm gen giảm đi đáng kể. Phương pháp này có thể là một kỹ thuật tiềm năng cho ứng dụng để knockdown cho quá trình trình diện các yếu tố bệnh sinh trong các thể tư dưỡng của N. fowleri.
Triệu chứng và các phương cách chẩn đoán
Các triệu chứng khởi đầu của nhiễm trùng bắt đầu là 1-14 ngày kể từ khi phơi nhiễm mầm bệnh. Các triệu chứng ban đầu bao gồm nhưng không giới hạn về thay đổi mùi vị, nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa, sốt, cứng cổ. Các triệu chứng thứ phát bao gồm lú lẫn, u ám, thiếu tập trung, thất đều và cơn co giật. Sau khi các triệu chứng bắt đầu, diễn tiến bệnh nhanh chóng qua 3-7 ngày và có thể chết xảy ra từ 7-14 ngày kể từ khi phơi nhiễm.
N. fowleri có thể phát triển trong một số loại dung dịch hoặc môi trườngvô khuẩn (axenic media) hoặc các đĩa thạch agar không có chất dinh dưỡngđược phủ bởi vi khuẩn (non - nutrient agarplates coated with bacteria). Escherichia coli có thể sử dụng để “overlay” trên các đĩa thạch không có chất dinh dưỡng và nhỏ một giọt dịch não tủy lắng thêm vào đó. Rồi đưa các đĩa thạch này vào ủ trong điều kiện nhiệt độ 370C và kiểm tra mỗi ngày để sạch agar trong các vết mỏng, điều này chỉ ra rằng các thể tư dưỡng đã ăn vi khuẩn.
Phát hiện tác nhân gây bệnh này trong nước có thể thực hiện bởi ly tâm mẫu nước có bổ sung thêm Escherichia coli, rồi thì dùng thêm viên thức ăn (pellet) bổ sung vào môi truowngf thạch không có chất dinh dưỡng. Sau vài ngày, đĩa được quan sát vi thể và các nang Naegleria được xác định thông qua kiểm tra hình thái học. Việc xác định cuối cùng của các loài có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp hóa sinh hoặc sinh học phân tử khác nhau.
Việc xác định có mặt của Naegleria có thể được làm bởi thử nghiệm tạo roi (flagellation test), ở đó ký sinh trùng xuất hiện rõ trong môi trường nhược trương (hypotonic environment) như nước cất chẳng hạn. Naegleria ngược với các loài amoebae khác, chỉ cần phân biệt trong vòng 2 giờ chuyển thành thể roi. Tính sinh bệnh học có thể được xác định thêm nhờ vào sư phơi nhiễm với nhiệt độ cao (42°C): Naegleria fowleri có thể phát triển ở nhiệt độ này nhưng loài Naegleria gruberi không sinh bệnh thì không.
Phát hiện và Chẩn đoán
Các nghiên cứu hiện nay tập trung vào sự phát triển các kỹ thuật như các thử nghiệm chẩn đoán real time PCR. Một phương pháp được phát triển có liên quan đến giám sát tiến trình khuếch đại trong real-time với sự lai có vật dò đánh dấu đích trình tự MpC15 – trong đó là duy nhất đối vớiN. fowleri.
Một nhóm khác sử dụng phản ứng multiplex 3 real-time PCR như là một chẩn đoán đối vớiN. fowleri, cũng như Acanthamoeba spp. và Balamuthia mandrillaris. Điều này có thể chứng minh như là một xét nghiệm có hiệu quả.
Chẩn đoán kịp thời vẫn là một trở ngại lớn và là yếu tố vô cùng quan trọng để điều trị thành công các ca nhiễm trùng, vì hầu hết các ca chỉ được làm rõ sau khi đã giải phẩu tử thi. Nhiễm trùng đã giết chết 121 người tại mỹ từ năm 1937 đến năm 2007, bao gồm 6 ca trong năm 2007 (3 ca tại Florida, 2 ca tại Texas và 1 ca tại Arizona).
Bệnh đã giết đi một ca vào năm 2008 tại California, 1 ca vào năm 2009 tại Florida và vào năm 2010 có 3 ca báo cáo; 1 ca ở Arkansas, 1 ở Minnesota và 1 ca ở Texas, với ca thứ 4 amip chưa xác định tại South Carolina. Vào tháng 8.2011, có những ca tử vong riêng lẻ tại Virginia, Louisiana và Florida
Điều trị - thuốc đặc hiệu?
Amphotericin B có hiệu quả chống lại N. fowleri trên in vitro, nhưng tiên lượng vẫn còn ảm đạm đối với các trường hợp mắc PAM, và quá trình sống sót vẫn ít hơn 1%. Về cơ bản của các bằng chứng in vitro đơn thuần, khuyến cáo CDC hiện tại điều trị bằng Amphotericin B đối với PAME tiên phát, nhưng không có bằng chứng nào liệu pháp điều trị này có hiệu quả trên bệnh nhân. Điều trị phối hợp miconazole, sulfadiazine và tetracycline đã cho thấy thành công có giới hạn chỉ khi chỉ định sớm trong giai đoạn đầu tiên của nhiễm trùng.
Trong khi miltefosine điều trị có hiệu quả trên các nghiên cứu in vivo ở chuột, thì Chlorpromazine (Thorazine) chỉ ra là một chất có hiệu quả nhất, các tác giả kết luận rằng "Chlorpromazine có hoạt tính điều trị tốt nhất chống lại N. fowleri trên cả in vitro và in vivo. Do đó, chúng có thể là tác nhân hữu ích nhất trong điều trị PAME hơn là amphotericin B"
Chẩn đoán kịp thời vẫn là một trở ngại lớn và là yếu tố vô cùng quan trọng để điều trị thành công các ca nhiễm trùng, vì hầu hết các ca chỉ được làm rõ sau khi đã giải phẩu tử thi. Nhiễm trùng đã giết chết 121 người tại mỹ từ năm 1937 đến năm 2007, bao gồm 6 ca trong năm 2007 (3 ca tại Florida, 2 ca tại Texas và 1 ca tại Arizona). Bệnh đã giết đi một ca vào năm 2008 tại California, 1 ca vào năm 2009 tại Florida và vào năm 2010 có 3 ca báo cáo; 1 ca ở Arkansas, 1 ở Minnesota và 1 ca ở Texas, với ca thứ 4 amip chưa xác định tại South Carolina. Vào tháng 8.2011, có những ca tử vong riêng lẻ tại Virginia, Louisiana và Florida.
Các chiến lược dự phòng y tế công cộng
Hiện tại, không có một biện pháp nào triển khai rộng rãi để dự phòng vì tỷ lệ nhiễm của N. fowleri thấp. Tuy nhiên, vì tính tử vong của viêm não màng não tiếp đó, nên cần có những nổ lực nghiên cứu và phát triển cả về mặt chẩn đoán và điều trị. Ngoài ra, một ca bệnh có thể làm tăng kiến thức về N. fowleri và cần có những báo cáo chính xác hơn.
Hy vọng là với câu trả lời trên, bạn sẽ thêm nhiều thông tin liên quan đến ký sinh trùng ăn não nhé. Thân chúc bạn khỏe!
Phan Ngọc Tùng- tunglhi@gmail.com - Phú Yên
Hỏi: Tôi mới bị đau đầu hơn tháng, đo điện não BS bảo do căng cơ đã uống thuốc nhưng không giảm, nghe nói đau đầu có khi bị nhiễm giun sán có đúng không, đau đầu có xét nghiệm tìm ra được bệnh không?
Trả lời:
Chúng tôi không hiểu thế nào cho chính xác khi muốn tư vấn cho bạn một cách thấu đáo hơn. Việc chẩn đoán bằng điện não mà cho rằng đau đầu do căng cơ thì quả là siêu thật!, không biết tại sao giờ đây các phòng mạch và các cơ sở điều trị lạm dụng quá nhiều đến thiết bị của họ đang có để khia thác hết công suất máy và thu hồi vốn nhanh nhất. Song, khi phát hiện những gì trên hình ảnh đo chăng nữa, họ đều phán cho kết luận là TD thiếu máu não thoáng qua, TD: suy giảm tuần hoàn não hoặc TD sóng điện não kém hoạt động,…nói chung là rất chung chung và bạn nên nhớ rằng kết quả này bị nhiễu bởi rất nhiều yếu tố bên ngoiaf lẫn bên trong.
Câu hỏi của bạn có đề cập đau đầu có khi bị giun sán không, chúng tôi xin trả lời có thể và xét nghiệm có tìm ra được nguyên nhân không? Xin trả lời có thể có có thể không bạn ạ. Do vậy, để xác định nguyên nhân đau đầu của bạn một cách cụ thể, bạn nên đến một cơ sở chuyên khoa và khám chuyên khoa nội thần kinh hoặc tại bệnh viện có khoa tâm thần kinh để các bác sĩ chuyên khoa khám và xử trí đúng nhất.
Thuật ngữ nhức đầu hay đau đầu bao hàm tất cả các loại đau ở đầu, nhưng thông thường ta dùng từ nhức đầu chỉ để nói tới những cảm giác khó chịu vùng vòm sọ. Nhức đầu là một trong những cảm giác khó chịu thường gặp nhất của con người, là một triệu chứng thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau, xuất hiện trong rất nhiều bệnh. Nhức đầu có thể là dấu hiệu đầu tiên, duy nhất trong một thời gian dài của một bệnh thần kinh thực thể. Nhức đầu cũng hay gặp trong các bệnh nội tạng, bệnh toàn thân hoặc bệnh tai mũi họng, mắt, răng.
Nhức đầu được xếp vào 10 lý do hàng đầu khiến bệnh nhân tới thầy thuốc khám bệnh. Các cuộc điều tra cộng đồng cho thấy có 65 - 80% phụ nữ và 57 - 75% nam giới bị nhức đầu mỗi tháng. Số hiện tượng mắc nhức đầu giảm xuống theo tuổi, trong khi tần số tới bác sĩ khám bệnh vì nhức đầu lại tăng.
Nhức đầu là nguyên nhân làm mất nhiều ngày công lao động. Phần lớn nhức đầu thường là lành tính, nhưng đôi khi có những vấn đề rất nghiêm trọng có thể cùng có mặt với nhức đầu. Điều trị nhức đầu không phải chỉ là điều trị triệu chứng mà căn bản là điều trị nguyên nhân, điều trị bệnh.
Về nguyên nhân gây nên nhức đầu cho bạn, có khá nhiều vì bạn không cho chúng tôi biết bệnh lý nền bạn đang có hoặc chúng tôi cũng không biết lứa tuổi của bạn là bao nhiêu để chúng tôi khu trú nhóm nguyên nhân. Do đó, chúng tôi xin đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến nhức đầu như sau:
Nguyên nhân mạch máu
* Nhức đầu vận mạch: là thể thông thường nhất, do một rối loạn vận mạch trong não, thường gặp trong các bệnh nhiễm trùng, sốt, các trạng thái thiếu oxy não, đói, nhiễm độc rượu và thuốc lá mạn tính.
* Đau nửa đầu (Migren thông thường):
- Đặc điểm cơ bản của Migrain là đau nửa đầu từng cơn, tái diễn có chu kỳ, kèm theo buồn nôn, nôn. Trước khi đau thường có tiền triệu. Ngoài cơn hoàn toàn bình thường nữ bị bệnh nhiều hơn nam. Gặp nhiều ở lứa tuổi 15 - 30.
- Yếu tố khởi phát cơn thường là yếu tố tâm lý, lo lắng, xúc cảm. Migren tănglên trong thời kỳkinh nguyệt, tiền mạn kinh và dùng thuốc tránh thụ thai. Yếu tố môi trường, ánh sáng, tiếng động, bệnh tăng huyết áp, một số thuốc cũng làm tăng tình trạng nặng của bệnh.
- Vị trí đau thường ở một bên đầu, tuỳ từng cơn, đau đầu có thể luân phiên bên phải, bên trái.
- Tính chất đau: cảm giác nặng đầu rất khó chịu, nẩy theo mạch đập đồng thời với nhịp tim.
- Cường độ đau: đau vừa đến dữ đội. Trên cùng một bệnh nhân cường độ đau ở mỗi cơn có thể khác nhau. Đau tăng khi lên cầu thang, khi vận động, hoặc bởi ánh sáng, tiếng động, mùi thuốc (thuốc lá, thuốc chữa bệnh). Do đó, bệnh nhân phải tìm chỗ yên tĩnh, buồng tối, không muốn tiếp xúc với mọi người.
- Hướng lan: xuất phát từ vùng trán - thái dương, đau có thế lan lên đỉnh đầu, ra vùng chăm, xuống hàm dưới hoặc ra hốc mắt cùng bên. 84% đau chỉ lan ra nửa đầu.
- Thời gian của cơn: xảy ra thành từng cơn lâu 4 - 24 giờ, giai đoạn đau nhất từ 30 phút đến 2 giờ.
- Đau đầu giảm sau khi nôn hoặc giảm dần trong ngày, thường ngủ được mới hết cơn, giấc ngủ càng sâu càng nhanh hết.
- Khám trong cơn thấy động mạch thái đương căng, nổi ngoằn ngoèo, nẩy, đập mạnh ở bên đau.
* Tăng huyết áp:
- Ngoài nhức đầu, bệnh tăng huyết áp còn có những triệu chứng khác như: chóng mặt, đánh trống ngực, chảy máu cam, ù tai, mất ngủ, đi đái đêm...
- Tính chất nhức đầu trong tăng huyết áp thường gặp trong tăng huyết áp nặng, hay nhức ở vùng chăm, xảy ra buổi sáng và giảm dần trong ngày.
* Giãn mạch nửa đầu: đau một bên và nhậy cảm với histamin.
* Viêm động mạch thái dương (bệnh Horton):
- Là một bệnh viêm hệ thống động mạch, chủ yếu là động mạch thái dương. Nữ bị nhiều hơn nam, hầu hết là trên 60 tuổi, có yếu tố di truyền. Thường đau một bên thái dương, đau thường xuyên, tăng lên khi kích thích nhẹ (chải đầu, đeo kính...).
- Trong cơn kịch phát: nhức đầu dữ đội.
- Có thể đau buốt theo mạch đập.
- Đau nhức ở vùng thái dương lan ra vùng trán và hốc mắt cùng bên.   !important; |
- Khi khám phát hiện thấy một đoạn thừng động mạch thái dương cứng màu đỏ tím, ấn đau. Sờ thấy động mạch có chỗ to nhỏ không đều, mạch đập yếu hoặc không đập.
- Có thể phát hiện tổn thương khu trú ở một số động mạch khác.
- Toàn thân bệnh nhân có sất, mệt mỏi, chán ăn, gầy sút.
- Có thể có biểu hiện mù mắt đột ngột, do nghẽn hoàn toàn động mạch mắt, một số trường hợp biểu hiện thiếu máu não, viêm động mạch ngoài sọ và viêm động mạch các chi.
Nguyên nhân nội sọ
* Tăng áp lực nội sọ: thường nhức đầu vào buổi sáng, lúc gắng sức, đôi khi thường xuyên.
* U não:
- Lúc đầu, nhức đầu xuất hiện thành những cơn ngẩn, rồi sau kéo dài và trở thành thường xuyên, đôi khi không chịu nối.
- Đau có thể xuất hiện tăng lên và mất đi theo sự thay đổi tư thế của đầu: khi đó bệnh nhân có tư thế bắt buộc, nằm nghiêng sang bên hoặc nằm ngửa, đầu cúi ra trước, ra sau. Nguyên nhân gây nên cáctư thế bắt buộc của đầu là do:
+ Kích thích các dễ thần kinh cảm giác.
+ Kích thích tai trong.
+ Những thay đổi của tuần hoàn dịch não tuỷ.
- Nhức đầu xuất hiện hoặc đau tăng lên khi:
+ Đè ép động mạch cảnh hoặc truyền các trung dịch ưu trương.
+ Đau khu trú dội lên khi gõ vào đầu.
- Vị trí nhức đầu xuất hiện đầu tiên có liên quan đến vị trí khối u, 1/3 số bệnh nhân u não có vị trí nhức đầu trùng với vị trí khối u. Nhức đầu chỉ có vị trí định khu khi không có tăng áp lực nội sọ.
* Áp xe não: kèm theo sốt, tăng áp lực nội sọ.
* Viêm màng não và chảy máu dưới màng nhện: bình thường màng nuôi và màng nhện không nhậy cảm đau. Nhưng trong viêm màng não và chảy máu dưới màng nhện thì bệnh nhân lại nhức đầu dữ dội là do:
- Những cấu trúc (bình thường đã có sẵn tính nhậy cảm với đau) chạy qua hoặc áp sát vào màng nuôi bị kích thích như: những động mạch lớn của nền sọ và các nhánh của nó, những xoang tĩnh mạch lớn.
- Các dây thần kinh sọ não bị kích thích:
+ Các dây thần kinh giác quan bị kích thích sẽ phát sinh sợ ánh sáng, sợ nói to.
+ Các dây thần kinh cảm giác bị kích thích sẽ gây tăng cảm giác đau.
+ Các dây thần kinh vận động bị kích thích gây nên co cứng màng não, co cứng đau ở gáy, co cứnghàm.
- Đôi khi đám rối màng mạch bị kích thích gây tăng áp lực dịch não tuỷ.
Các nguyên nhân ở sọ
- Thường gặp trong bệnh Kahler, các u xương di căn vào hộp sọ, phát hiện bằng chụp x-quang sọ.
- Tổn thương các dây thần kinh cảm giác: đau đọc theo các đây thần kinh bị tổn thương, ấn vào đau có thể là zona.
Các nguyên nhân ngoài sọ
- Nhức đầu do bệnh mắt:
+ Các tật chiết quang, viêm mống mắt thể mi, nhức đầu nhiều khi ở trán, tăng lên khi gắng nhìn.
+ Glaucome: đau đầu dữ dội, nhức trong hố mắt, nhìn vào đèn thấy có quầng xanh đỏ như cầu vồng, ấn nhãn cầu thấy căng cứng, tăng nhãn áp.
+ Ngoài ra còn gặp nhức đầu sau khi làm việc bằng mắt, đọc sách, xem vô tuyến.
- Nhức đầu do bệnh tai mũi họng:
+ Viêm tai giữa, viêm xương chũm, nhức đầu thường ở thái dương, ở một bên và cách hồi, nắn vào xương chũm gây đau.
+ Vẹo vách ngăn mũi, phì đại xương cuốn mũi.
+ Viêm xoang trán, xoang mũi hoặc xoang sàng: nhức đầu chủ yếu vào buổi sáng và tăng lên khi lạnh.
- Nhức đầu do bệnh răng:
Các bệnh sâu răng, áp xe chân răng, răng khôn mọc lệch thường đau tại chỗ, nhưng có thể đau lên thái dương, đỉnh đầu, khi cắn vật cứng đau tăng lên.
Nguyên nhân khác
* Nhiễm độc: rượu, nhiễm độc chì, asen, hút nhiều thuốc lá: thường nhức toàn bộ đầu.
* Nhức đầu sau chấn thương:
- Đau đầu xuất hiện vài ngày sau chấn động não hay đụng giập não, thường khu trú ở chỗ bị thương, tăng lên do các trạng thái xúc cảm và thay đổi tư thế.
- Một thời gian sau chấn động não hoặc đụng giập não, đau đầu xuất hiện ngày một tăng, đồng thời lại xuất hiện những triệu chứng thần kinh thực thể thì phải nghĩ tới khả năng có bọc máu tụ dưới màng cứng mạn tính.
* Nhức đâu sau chọc tu.ý sông:
- Xảy ra vài giờ sau chọc dò tuỷ sống và kéo dài 1 - 2 ngày. Đau có tính chấtcăng kẻo, đôi khi như mạch đập, đau tăng ở tư thế ngũ hoặc đứng, hoặc sau các cử động mạnh của đầu, ho, gắng sức.
- Chọc ống thắt lưng bằng kim cỡ lớn, gây nhức đầu nhiều và kéo dài hơn dùngkim nhỏ.
- Áp lực dịch não tuỷ giảm đã làm thay đổi cân bằng thuỷ tĩnh của não và tác động đè ép tới các cấu trúc nhậy cảm đau.
- Sự căng thẳng nội tâm và lo lắng sợ hãi sau chọc dò tuỷ sống là yếu tố thuận lợi gây nhức đầu.
* Sốt: sốt cao gây giãn mạch gây nên nhức đầu. Đau nhiều ở vùng trán, chẩm hoặc toàn bộ đầu.
* Thiếu máu: xuất hiện trong trường hợp thiếu máu nặng, hoặc ở những người bình thường ở độ cao.
Nhức đầu do thay đổi áp lực ở tai, xoang mặt. Làm động tác nhai, nuốt hay nghiệm pháp Valsava thì sự chênh lệch áp lực sẽ được thăng bằng nhanh chóng.
* Viêm xơ các cơở cổ. xác định điểm đau ở chỗ bám các cơ cổ.
Do vậy, nếu đau đầu chỉ dựa vào kết quả đo điên não đồ thì có lẽ chưa phù hợp bạn ạ! Vì hình ảnh điện não đồ chỉ là gián tiếp và không phải là tiêu chuẩn vàng trong mọi trường hợp đau đầu. Một lần nữa chúng tôi khuyên bạn đi khám đúng chuyên khoa để nhận được kết quả khám và tư vấn thích hợp nhất bạn nhé!
myduyenbs@gmail.com.vn- 48 lí tự trọng
Hỏi: Em xin chào ban biên tập! Anh chị có thể cho em biết: sau khi học trung cấp tại Viện kí sinh trùng xong em có thể liên thông lên đại học không? Liên thông tại đâu? thời gian là bao lâu? liên thông lên thẳng đại học hay là có phải qua cao đẳng không? Em nghe nói: học xong trung cấp tại viện sau đó phải đợi đến 2 năm sau mới được liên thông lên đại học, điều đó đúng hay sai? Kính mong ban biên tập sớm trả lời câu hỏi của em. Chúc ban biên tập sức khỏe!
Trả lời: Liên quan đến câu hỏi của bạn là vấn đè đào tạo liên thông lên đại học sau khi kết thúc hoặc tốt nghiệp kỹ thuật viên xét nghiệm của Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn, chúng tôi xin giới thiệu bạn một địa chỉ đáng tin cậy để hỏi và nhận được phúc đáp thấu đáo nhất là:
-Khoa đào tạo, Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn
-Khoa đào tạo, Trường đại học y dược Huế (nếu bạn muốn học liên thông lên đại học tại Huế)
-Và một số trường khác nếu bạn muốn học liên thông như Đại học Đà Lạt, Đại học Y té công cộng tại Hà nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh.
Thân chúc bạn khỏe mạnh và sớm đi học lên đại học!
Hoài- nguyenhoai165@yahoo.com- Ninh Phước - Ninh Thuận
Hỏi: Xin chào các bác sĩ ở BV Quy Nhơn, cho tôi xin hỏi 1 việc sau: cháu nhà tôi năm nay 9 tuổi, cháu đi khám thì được BS chẩn đoán là viêm da dị ứng, có đi khám đông y là bệnh phong ngứa (can tích nhiệt độc). Bệnh của cháu là nổi những mụn ngứa nước và có mủ trên 2 chân từ đấu gối trở xuống là nhiều và ở hai vành tai, khuỷu tay. Khi cháu ăn hải sản, thịt gà, thịt vịt xiêm thì rất ngứa, cháu gãi cả đêm. Tôi có cho cháu uống thuốc tây nhưng chỉ bớt chứ không hết, nay cháu đang dùng thuốc đông y. Vậy cho tôi hỏi bệnh của cháu chữa có hết không? Xin các bác sĩ giúp tôi với!
Trả lời: xin chia sẻ và thông cảm về hoàn cảnh của đứa cháu của bạn đang gánh chịu một căn bệnh có kèm theo ngứa. Tuy câu hỏi của bạn có đề cập đến tổn thương và vị trí khá chi tiết nhưng lại không đề cập đến vết thương sau khi lành có để lại các vết sẹo thâm hay không vì theo mô tả của bạn, chúng tôi định hướng rằng đó là hình thái lâm sàng của viêm da do tụ cầu và liên cầu hơn là viêm da dị ứng hay phong ngứa (là các thuật ngữ dùng chung chung quá). Trong viêm da tụ cầu và liên cầu là lứa tuổi con bạn cũng phù hợp, vị trí thương tổn cũng phù hợp, và thường làm nặng thêm tổn thương sau khi ăn các thức ăn dễ có tính gây dị ứng như hải sản, thịt gia cầm,…thường xuất hiện và làm máu mủ khoảng 8-10 lần/ năm, sau khi bị xong để lại sẹo thâm đen trên da rất mất thẩm mỹ. Bệnh sẽ càng giảm dần theo tuổi càng lớn của trẻ.
Do đó, một lần nữa chúng tôi khuyên bạn nên đưa cháu khám ở một chuyên khoa da liễu để nhận được lời khuyên và điều trị thuốc phù hợp nhất. Thân chúc gia đình khỏe!
Nguyễn Minh Dương-mduongD32@gmail.com.vn - 99 trường chinh, phường 7, thành phố tuy hòa, tỉnh phú yên
Hỏi: Em đang bị bệnh giun đũa chó trong máu = 0,8. Vậy em hỏi giun đũa chó có nguy hại đến sức khỏe không? Em nghe nói ở Quy Nhơn có nơi chữa trị hết loại bệnh này, vậy em xin hỏi viện mình có chữa trị hết không ạ? nếu không vậy em xin địa chỉ chữa trị loại bệnh này? E chân thành cảm ơn!
Trả lời:
Trước hết, chúng tôi cho bạn biết là kết quả xét nghiệm của bạn là âm tính (nghĩa là không bệnh) chứ không phải dương tính vì hiệu giá kháng thể OD của bạn chỉ có 0.8 là ngưỡng hiệu giá âm tính là bạn nhé.
Tại Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn có nhận và điều trị các bệnh giun sán, trong đó có bệnh giun đũa chó. Nhưng phải là đúng ca bệnh (nghĩa là phải có đầy đủ tiêu chuẩn lâm sàng và xét nghiệm) chứ bạn không nên dựa vào chỉ xét nghiệm ELISA mà đi điều trị kẻo nhiều cơ sở điều trị hiện nay đang lạm dụng trong cả vấn để xét nghiệm và điều trị để trục lợi bệnh nhân mà hậu quả bệnh nhân lại mang là không nên, đó là chúng tôi chưa kể đến tác dụng phụ lâu dài lên hệ máu của bệnh nhân cũng như gây độc cho gan lâu dài do tích lũy thuốc làm độc cho gan và hệ máu.
Thân chúc bạn khỏe!
Nguyễn trung đính- dinhcauduong86@gmail.com- Đà Nẵng
Hỏi: Xin chào các bác sĩ! tôi bị rối loại tiêu hóa đi cầu nhiều lần trong ngày đặt biệt là buổi sáng cho đến trưa đi cầu phân lỏng. Khi ăn xong buổi sáng thấy sôi bụng, người tôi hoàn toàn bình thường cao 1.78m nặng 80 kg khỏe mạnh tôi đi chữa nhiều nơi nào là chẩn đoán đại tràng kích thích, viêm đại tràng cũng không hết gần đây bác sĩ cho tôi đi xét nghiệm máu thì tôi bị nhiễm giun lươn và giun đũa chó, mèo bác sĩ cho tôi uống Albendazole 400mg ngày uống hai lần trong 21 ngày nhưng tôi thấy bệnh tiêu hóa chỉ đỡ hơn một tí tôi vẫn đi cầu lỏng sơ sơ chưa thành khuôn lắm và vẫn đi cầu 2 đến 3 lần nhất là vào buổi sáng. Hiện tôi rất lo lắng vì bệnh của tôi kéo dài 6 năm nay rồi mà không hết (tôi uống xong thuốc Albendazole được 5 ngày rồi mà vẫn bị như đã nói) vậy nhờ các bác sĩ tư vấn giúp tối với có cần dùng thêm thuốc gì nữa không và có cần đến viện khám nữa không.
Trả lời: Qua mô tả về tình hình bệnh của bạn, đặc biệt là các triệu chứng liên quan đến vấn đề đại tiện của bạn, nhất là sáng sớm đã gợi ý cho nhiều bác sĩ với các chẩn đoán khác nhau tùy thuộc vào chuyên khoa.
Theo nhận định của chúng tôi thì các chẩn đoán trên đều phù hợp cả. Đặc biệt sau khi điều trị bệnh giun lươn bằng thuốc Albendazole 21 ngày bạn có giảm đi phần nào triệu chứng của bạn, điều đó cho thấy hiệu quả và việc chẩn đoán của các bác sĩ trước đây đã đúng.
Tuy nhiên, hiện nay dấu hiệu rối loạn đại tiện của bạn vẫn còn có thể là do liều dùng của bạn chưa thích hợp vì bạn nặng 80kg, trong khi liều hàng ngày của bạn 2 viên (800mg/ ngày) có vẻ như chưa đủ vì liều thông thường điều trị các bệnh lý ấu trùng giun sán là 10-20mg/ kg cân nặng mỗi ngày là khuyến cáo của các nhà điều trị bệnh ký sinh trùng.
Điều cần làm lúc này là bạn nên xét nghiệm phân trở lại xem các tác nhân thường gây các triệu chứng như trên là nấm, amip, và ấu trùng giun lươn có còn nữa hay không để mà dùng thuốc điều trị tiếp tục hoặc bổ sung loại thuốc sao cho phù hợp. Một vấn đề nữa, chúng tôi muốn khuyên bạn là trong thời gian bạn dùng thuốc điều trị và để khỏi bệnh nhanh thì cần kiêng bia rượu tuyệt đối cũng như các thức ăn có chất kích thích và khó tiêu như tiêu, ót, mỡ,…
Với câu trả lời trên, chúng tôi hy vọng bạn sẽ hài lòng và sớm đi kiểm tra lại sức khỏe và xét nghiệm để phát hiện tác nhân gây bệnh sớm và điều trị kịp thời.