Theo tin từ Tổ chức Y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương trên trang tin điện tử Malaria, other vectorborne and parasitic diseases (http://www.wpro.who.int/), vào ngày 22-24 tháng 2 năm 2011 vừa qua tại Centre for Academic Information Service Auditorium at Universiti Malaysia Sarawak’s (Unimas), Kuching, Sarawak, Malaysia đã tổ chức hội nghị bàn về sốt rét ở người do loài ký sinh trùng Plasmodium knowlesi tác động lên sức khỏe cộng đồng.
Những thông tin từ Hội nghị liên quan đến Plasmodium knowlesi ở người tại Malaysia
Plasmodium knowlesi là một loài ký sinh trùng sốt rét lưu hành trên một số loài khỉ những cũng có thể lây nhiễm cho người. Các trường hợp nhiễm P. knowlesi trên người lần đầu tiên xác định tại Malaysia và kể từ đó có thêm một số quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á có báo cáo. Trong khi P. knowlesi từ lâu người ta đã sử dụng như một mô hình sốt rét khỉ (“simian model”) để nghiên cứu về bệnh học ở sốt rét người và bộ gen hoàn chỉnh gần đây đã được công bố, có nhiều “lỗ hỗng” kiến thức vẫn còn tồn tại có liên quan đến lĩnh vực dịch tễ học, đặc điểm lâm sàng và những tác động của chúng liên đới đến sức khỏe cộng đồng và các chiến lược phòng chống sao cho phù hợp. Văn phòng của WHO tại khu vực Tây Thái Bình Dương (The WHO Regional Office for the Western Pacific) đề nghị triệu tập một hội nghị tham vấn không chính thức để bàn về sốt rét ở người do loài nhiễm P. knowlesi cùng với các nhà nghiên cứu, các nhà dịch tễ, chuyên gia y tế công cộng và các đại diện của các bộ y tế các quốc gia để cùng nhau xác định khả năng nhiễm P. knowlesi để thảo luận các tác động của sốt rét do P. knowlesi trong vùng và xác định kế hoạch cũng như hướng sau đó.
Sốt rét ở người được nghĩ từ lâu gây ra bởi 4 loài ký sinh trùng sốt rét Plasmodium: P falciparum, P. vivax, P. malariae và P. ovale. Quan niệm này đã thay đổi kể từ khi một số lượng lớn các ca sốt rét ở người do P. knowlesi được báo cáo, đây là một loại ký sinh trùng sốt rét thường có liên quan đến các khỉ macaques đuôi dài hoặc đuôi heo, đã được phát hiện tại Kapit. Con người nhiễm phải khi con người bị đốt bởi các con muỗi trong rừng vốn trước đó đã ăn máu của khỉ và người nhiễm. Những ca ở người thường xem là sốt rét khỉ kể từ khi tìm thấy ở một số nơi tại Sarawak, Sabah và Peninsular Malaysia cũng như tại Thái Lan, Myanmar, Singapore, Việt Nam, Philippines và Indonesian Borneo.
Các đại biểu đến từ Malaysia, Thái Lan, Myanmar, Singapore, Việt Nam, Philippines, Cambodia, Nhật Bản, Anh, Úc và Indonesia cùng thảo luận. Vào ngày đầu tiên, các đại biểu sẽ nghe các chuyên gia về sốt rét P. knowlesi từ Unimas, đại học George của Anh, Trung tâm CDC, Mỹ, Viện Sức khỏe môi trường của Singapore và Bộ phận y tế của Sabah. Cuộc họp sẽ tiến hành tại Unimas như là một sự thừa nhận tiên phong trong nghiên cứu về sốt rét P. knowlesi tiến hành ở Trung tâm Nghiên cứu sốt rét(Malaria Research Centre). Nhóm nghiên cứu tại trường đại học cũng đã khám phá ra một số lượng lớn ca sốt rét khỉ ở người tại Sarawak và tiếp tục nghiên cứu về lâm sàng, sinh lý bệnh học, đặc điểm dịch tễ học của sốt rét P. knowlesi.
Mục tiêu của hội nghị (Informal Consultation on the Public Health Implications of Malaria in Humans due to P. knowlesi) là:
1.Để tổng quan lại những kiến thức sẵn có về nhiễm P. knowlesi liên quan đến lan truyền bệnh sang con người;
2.Để xác định ý nghĩa về mặt y tế công cộng của nhiễm P. knowlesi ở người;
3.Để xác định chiến lược quản lý thích hợp nhất đối với bệnh sốt rét do P. knowlesi ở người ở chương trình phòng chống và loại trừ sốt rét;
4.Để xác định các vấn đề còn trống về kiến thức của nhiễm ký sinh trùng sốt rét P. knowlesi ở người và xác định các chiến lược tiếp theo.
Sốt rét tại vùng Đông Nam Á
Phía Nam và Đông Nam Á (gọi chung là SEA region) như là nơi hầu hết số ca sốt rét nằm ở lục địa các quốc gia châu Á. Ước tính khoảng 1.216 triệu người hay 70% tổng dân số của Đông Nam Á có nguy cơ mắc sốt rét. Trong số đó, khoảng chừng 29% dân số nằm ở vùng nguy cơ từ trung bình đến cao của nguy cơ sốt rét, 71% còn lại có nguy cơ thấp về sốt rét và ở đó có 30% dân số không mắc sốt rét. Khoảng 96% dân số có nguy cơ vừa đến cao bị sốt rét ở vùng Đông Nam Á là đang sống tại Bangladesh, India, Indonesia, Myanmar và Thailand và góp phần hơn 95% số trường hợp sốt rét xác định và tử vong do sốt rét. Trong thời gian 2000 - 2009, tại khu vực Đông Nam Á, số ca sốt rét xác định dao động từ 2.16 - 2.83 triệu ca và tử vong khoảng 3.188 - 6.978. Tỷ lệ P. falciparum khoảng 44-60%. Trong năm 2009, tổng số 2.7 triệu ca sốt rét xác định bằng kính hiển vi hoặc test nhanh và 3.188 ca tử vong được báo cáo trong vùng mà tại đó số ca sốt rét khoảng 26 -36 triệu và số ca tử vong khoảng 42.300 – 77.300. Tỷ lệ P. faciparum vẫn khoảng 60.5% (gồm cả chẩn đoán test nhanh dương tính). Số ca xác định xét nghiệm cao nhất được báo cáo tại Ấn Độ là 1.563.344, theo sau là Indonesia (544.477 và Myanmar 414.008 nơi được xem là số ca xác định thấp nhất được báo cáo là tại Sri Lanka (558) theo sau là Bhutan (972) và Nepal (3,335).
Trong số quần thể đang sống tại các vùng sốt rét, trẻ em, trẻ em nhỏ, phụ nữ mang thai được xác định là có nguy cơ cao nhất đối với sốt rét. Các nhóm khác gồm quần thể dân di biến động có nguy cơ cao của sốt rét, đặc biệt có liên quan đến công việc gần gũi trong rừng, khai thác khaongs sản, săn bắn, công nhân xây dựng các công trình đường xá, cầu đường. Tại một số quốc gia, các cộng đồng dân tộc thiểu số, người tỵ nạn, người nhập cư trái phép, khách du lịch và người hành hương cũng là nhóm nguy cơ cao góp phần trong sốt rét.
Tình trạng sốt rét trong rừng và các vùng có liên quan đến rừng vẫn là vấn đề nghiêm trọng do trung gian truyền bệnh cao, do lan truyền cao, mùa lan truyền bệnh kéo dài, tình hình kháng thuốc của P. falciparum kèm theo quần thể dân di biến động lớn không kiểm soát hết. Sốt rét liên quan đến rừng chiếm khoảng 40% tổng số ca sốt rét và khoảng 60% số ca P. falciparum trong vùng. Vì tình hình gia tăng tiếp cận với rừng do vấn đề sử dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên, nên các quần thể dân di biến động thường rất bị nhiễm sốt rét và tạo các dịch trong các vùng như thế.
Một số ca nhiễm P. knowlesi, mắc phải từ khỉ macaque đã được báo cáo tại các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, myanmar và Phillippines. Như vậy, một lần nữa, có thể làm thay đổi diện mạo và cơ cấu của ký sinh trùng sốt rét ở người và Nguy cơ sốt rét ở khu vực châu Á:
Quốc gia | Nguy cơ sốt rét | Loài |
Afghanistan | Nguy cơ tại các vùng có độ cao so với mặt nước biển thấp hơn 2000 m từ tháng 4 đến tháng 12 | P. vivax và P. falciparum |
Bahrain | Không có sốt rét | |
Bangladesh | Tất cả các vùng, ngoại trừ thành phố Dhaka | P. vivax và P. falciparum |
Bhutan | Nguy cơ tại vành đai phía nam của 5 quận: Chirang, Samchi, Samdrupjongkhar, Sarpang, Shemgang. | P. vivax và P. falciparum |
Brunei Darussalam | Không có nguy cơ | |
Burma (Myanmar) | Chỉ có vùng nông thôn. Không có nguy cơ tại các thành phố Yangon và Mandalay (suốt cả năm tại bang Karen; từ tháng 3 đến tháng 12 tại Chin, Kachin, Kayah, Mon, Rakhine và Shan states, Pegu Division, Hlegu, Hmawbi, phố thị Haikkyi của khu Yangon; từ tháng 4- 12 tại các vùng nông thôn của khu Tenasserim; từ tháng 5 dến tháng 12 tại Irrawaddy và các vùng nông thôn của khu Mandalay; từ tháng 6 đến 12 các vùng nông thôn của Magwe và Sagaing) | Chủ yếu do P. falciparum; có thể do P. vivax |
Cambodia | Tất cả các vùng gồm cả khu phức hợp đền Angkor Wat; không có nguy cơ ở Phnom Penh và quanh Lake Tonle Sap | Chủ yếu do P. falciparum; cũng có thể do P. vivax |
China | Có nguy cơ tại các vùng nông thôn của Hainan, Yunnan, Fuijan, Guangdong, Guangxi, Guizhou, Sichuan, Tibet (trong khu Zangbo River Valley only), Anhui, Hubei, Hunan, Jiangsu, Jiangxi, Shandong, Shanghai và Zhejiang. Lan truyền trong thời tiết ấm (33°bắc N: từ tháng 7 đến tháng 11; giữa33° N đến 25° N: tháng 5 đến 12; từ 25° nam N: quanh năm); Không có nguy cơ sốt rét tại đô thị cũng không có ở vùng đồng bằng. Có thể xem thêm trang: http://www.actmalaria.org/downloads/pdf/info/2004/China.pdf | P. falciparum cũng như P. vivax |
China - Hong Kong | Không có nguy cơ tại các vùng đô thị; nguy cơ hạn định tại các vùng nông thôn | P. falciparum cũng như P. vivax |
Quốc gia | Nguy cơ sốt rét | Loài |
China - Macao | Không có nguy cơ | |
Cyprus | Không có nguy cơ | |
East Timor | Tất cả các vùng | Nổi trội P. falciparum |
India | Tất cả các vùng có độ cao so với mực nước biển < 2.000 m (ngoại trừ một số vùng của bang Himachal Pradesh, Jammu, Kashmir và Sikkim) | P. vivax (80%); P. falciparum (20%) |
Indonesia | Tất cả các vùng bao gồm Irian Jaya, khu phức hợp đền Borobudur trên đảo Java và các vùng nông thôn của phần còn lại của đảo. Không có nguy cơ tại Jakarta Municipality, các thành phố lớn và khu nghỉ dưỡng ở Java, Sumatra và Bali. | P. falciparum và P. vivax |
Iran | P. vivax tại một số vùng phía bắc của núi Zagros và tây và tây nam trong suốt những tháng mùa hè; P. falciparum tại các vùng nông thôn của Sistan-Baluchestan, Kerman (vùng nhiệt đới phía nam) và các tỉnh Hormozgan từ tháng 3-11. | P. falciparum và P. vivax |
Iraq | Các vùng phía bắc có độ cao < 1500m - Các tỉnh Duhok, Erbil, Ninawa, Sulaimaniya, Támim và Basrah | Chỉ có P. vivax |
Israel | Không có sốt rét | |
Japan | Không có sốt rét | |
Jordan | Không có nguy cơ | |
Korea, DPR (North) | Nguy cơ hạn chế tại một số vùng phía nam | Chỉ có P. vivax |
Quốc gia | Nguy cơ sốt rét | Loài |
Korea, Republic (South) | Nguy cơ hạn chế đối với vùng phi quân sự (DMZ) và các vùng nông thôn phía bắc của tỉnh Kyonggi Do và Dangwon Do. | Chỉ có P. vivax |
Kuwait | Không có nguy cơ | |
Lao People's Democratic Republic (Laos) | Tất cả các vùng ngoại trừ thành phố Vientiane | Hầu hết là P. falciparum |
Lebanon | Không có nguy cơ | |
Malaysia | Nguy cơ giới hạn tại các vùng nông thôn; không có nguy cơ tại các khu đô thị và bờ biển. | P. falciparum; một số ca nhiễm P. knowlesi |
Maldives | Không có nguy cơ | |
Mongolia | Không có nguy cơ | |
Nepal | Các vùng nông thôn tại quận Terai và Hill của Bara, Dhanukha, Kapilvastu, Mahotari, Parsa, Rautahat, Rupendehi và Sarlahi, và đặc biệt dọc theo biến giới Ấn Độ, ở độ cao < 120m so với mực nước biển, không có nguy cơ ở Kathmandu và điển hình ở Himalayan. | Chủ yếu là do P. vivax, cũng có P. falciparum |
Oman | Nguy cơ giới hạn tại các vùng xa của tỉnh Musandam; không có nguy cơ kể từ năm 2001. | P. falciparum |
Pakistan | Tất cả các vùng, gồm cả các thành phố có độ cao < 2.000 m so với mực nước biển. | P. falciparum (~60%), P. vivax (~40%) |
Philippines | Quanh năm tại các vùng có độ cao < 600m, các vùng nông thôn và vùng vịnh Subic Bay; không có nguy cơ tại các tỉnh Aklan, Bilaran, Bohol, Capiz Catanduanes, Cebu, Guimaras, Iloilo, Leyte, Masbate, phía bắc Samar, Sequijor và thủ đô Manila cũng như khu phố thị hoặc vùng đồng bằng. | Chủ yếu P. falciparum; cũng có P. vivax |
Qatar | Không có nguy cơ | |
Saudi Arabia | Quanh năm tại hầu hết các vùng phía nam - tỉnh Jizan (ngoại trừ vùng có độ cao của tỉnh Asir) và một số vùng nông thôn của phía tây; không có nguy cơ tại các thành phố Jeddah, Mecca, Medina và Taif. | Chủ yếu P. falciparum |
Singapore | Không có nguy cơ | |
Sri Lanka | Có nguy cơ tại các vùng, ngoại trừ quận Colombo, Galle Kalutara và Nuwara Eliya | P. vivax (87%), P. falciparum (13%) |
Syrian Arab Republic | Có nguy cơ giới hạn từ tháng 5 -10 tại các vùng dọc theo biên giới phía bắc, đặc biệt tại vùng phía đông bắc của quốc gia này (tỉnh El Hassaka) | Chỉ có P. vivax |
Quốc gia | Nguy cơ sốt rét | Loài |
Taiwan | Không có nguy cơ | |
Thái Lan | Nguy cơ giới hạn suốt năm tại vùng nông thôn, đặc biệt vùng rừng và đồi trên khắp quốc gia, chủ yếu tập trung tại các khu vực biên giới với các quốc gia Cambodia, Lào, Burma. Khong có nguy cơ tại các thành phố, chủ yếu khu nghỉ dưỡng du lịch như Bangkok, Chiangmai, Pattaya, Phuket, Samui. | P. vivax và P. falciparum; một số ca là P. knowlesi |
Thổ Nhĩ Kỳ | Nguy cơ từ tháng 5-10 tại phía đông nam và vùng Amikova và Çukurova. Không có nguy cơ với các vùng du lịch chính tại phía tây và tây nam của quốc gia này. | Chỉ có P. vivax |
United Arab Emirates | Không có nguy cơ | |
Việt Nam | Tất cả các vùng ngoại trừ thành phố, đồng bằng sông Hồng, các vùng đồng bằng ven biển của miền Trung Việt Nam. Các tỉnh có nguy cơ cao là Dak Lak, Gia Lai, Kon Tum, Ca Mau, Bạc Liêu, Tây Ninh; không có nguy cơ là Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, Hải Phòng,… | Chủ yếu P. falciparum và P. vivax;P. malariae một số ca là P. knowlesi được báo cáo gần đây |
Yemen | Tất cả các vùng có độ cao < 2.000 m; không có sốt rét ở Sana | Chủ yếu P. falciparum |
| | | | |