Ngày 4/8/2009, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương (NIMPE) và Viện Nghiên cứu Y học Walter & Eliza Hall (WEHI), Đại học Melbourne, Australia đã tổ chức Hội nghị tổng kết Dự án "Tăng cường năng lực nghiên cứu phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng tại Việt Nam (2003-2009)".
Dự án này được thực hiện tại Việt Nam trong vòng 7 năm (2003-2009) với mục tiêu góp phần giảm tỷ lệ mắc sốt rét và các bệnh ký sinh trùng tại 4 tỉnh triển khai dự án là Yên Bái, Quảng Trị, Ninh Thuận và Bình Phước nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu như nâng cấp labo, đào tạo cán bộ về nghiên cứu kháng thuốc sốt rét, nâng cao kỹ năng chẩn đoán & điều trị bệnh sốt rét ở một số tuyến y tế cơ sở tại các tỉnh được hưởng thụ dự án; giám sát ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc (invivo, invitro và phân tích gen); xác định một số yếu tố xã hội học liên quan đến sốt rét dai dẳng tại tỉnh Quảng Trị. Từ mục tiêu này các hoạt động nghiên cứu sốt rét của dự án tập trung vào 3 tỉnh Bình Phước, Ninh Thuận & Quảng Trị; còn hoạt động phòng chống bệnh ký sinh trùng chủ yếu thực hiện ở tỉnh Yên Bái.
Đến dự Hội nghị có TS. Nguyễn Huy Nga-Cục trưởng Cục Y tế dự phòng & môi trường và đại diện các Cục/Vụ liên quan thuộc Bộ Y tế; TS. Biggs-Giám đốc dự án, Đại học Melbourne và các chuyên gia dự án; Lãnh đạo và chuyên viên các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng; Lãnh đạo và cán bộ thực hiện dự án thuộc các tỉnh Yên Bái, Quảng Trị, Ninh Thuận và Bình Phước; đài, báo truyền hình trung ương và địa phương đến đưa tin cho Hội nghị.
Trong phần báo cáo tổng kết: Hội nghị đã nghe TS. Biggs-Giám đốc dự án, Đại học Melbourne trình bài khái quát về dự án; TS. Tạ Thị Tĩnh-Trưởng Khoa Nghiên cứu bệnh sốt rét, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương trình bày về quá trình thực hiện dự án phần sốt rét và BS. Hoàng Ngọc Thư-Giám đốc Trung tâm Phòng chống sốt rét Yên Bái trình bày về quá trình thực hiện dự án phần giun móc.
Trong phần báo cáo khoa học: Hội nghị đã nghe các báo cáo nghiên cứu KSTSR P.falciparum kháng thuốc bằng phương pháp invivo và PCR tại Quảng Trị do TS. Bùi Quang Phúc trình bày; phân tích các yếu tố nguy cơ sốt rét dai dẳng và sốt rét kháng thuốc tại Quảng Trị do Ths. Nguyễn Quý Anh trình bày; giám sát KSTSR P.falciparum kháng artesunate và arterakin tại Ninh Thuận và Bình Phước (2001-2008) do BS. Ngô Việt Thành trình bày; giám sát KSTSR P.vivax kháng chloroquine tại Ninh Thuận và Bình Phước (2003-2008) do TS. Nông Thị Tiến trình bày; xác định điểm đột biến gen đa kháng thuốc và gen kháng chloroquine của P.falciparum tại Ninh Thuận và Bình Phước (2003-2009) do Ths. Trần Quốc Toàn trình bày.
Sau mỗi báo cáo, các đại biểu tham dự Hội nghị đã có nhiều ý kiến thảo luận, đóng góp trên tinh thần xây dựng để giúp cho nội dung các báo cáo được chặt chẽ và ứng dụng có hiệu quả vào chương trình phòng chống sốt rét ở Việt Nam.
Hoạt động nghiên cứu sốt rét
Quá trình thực hiện: được chia làm 4 giai đoạn
Giai đoạn 2003-2004: nghiên cứu ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) kháng thuốc sốt rét tại Ninh Thuận và Lab. của NIMPE; điều tra đánh giá hiệu quả sử dụng hướng dẫn mới về chẩn đoán & điều trị sốt rét tại Ninh Thuận; điều tra và triển khai thí điểm xây dựng vật liệu truyền thông phòng chống sốt rét cho đồng bào dân tộc Raglei.
Giai đoạn 2004-2005: nghiên cứu KSTSR kháng thuốc sốt rét tại tỉnh Bình Phước; xác định một số yếu tố xã hội học liên quan đến sốt rét dai dẳng tại tỉnh Quảng Trị.
Giai đoạn 2005-2006: nghiên cứu ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc sốt rét tại tỉnh Ninh Thuận và Bình Phước.
Giai đoạn 2007-2008: nghiên cứu KSTSR kháng thuốc sốt rét tại tỉnh Bình Phước; nâng cao năng lực phòng chống sốt rét cho cán bộ y tế tại Hướng Hóa (Quảng Trị).
 |
Cán bộ y tế thôn bản tuyên truyền phòng chống sốt rét cho đồng bào dân tộc thiểu số. (Nguồn ảnh: NIMPE) |
Hiệu quả của Dự án
Qua 7 năm hoạt động (2003-2009) với tổng kinh phí đầu tư trên 1 triệu USD Dự án đã góp phần xây dựng chính sách thuốc sốt rét ở Việt Nam, cụ thể là khuyến cáo việc sử dụng các phác đồ điều trị có hiệu lực cao; nâng cao năng lực cho các cán bộ tham gia Dự án thông qua việc nâng cấp Lab nuôi cấy tại NIMPE như cung cấp vật tư, trang thiết bị; đội ngũ cán bộ tham gia dự án được đào tạo trong và ngoài nước, trong đó có 6 cán bộ được cử đi học tập về kỹ thuật mới tại Australia về kháng thuốc (PCR và kỹ thuật sinh học); 2 cán bộ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và thạc sĩ y học từ kết quả nghiên cứu của dự án; các cán bộ tham gia dự án được nâng cao năng lực trong nghiên cứu khoa học và quản lý dự án; sản xuất và cung cấp vật liệu truyền thông (posters, trang lật, băng catsette) cho tỉnh Ninh Thuận và Quảng Trị; công bố và chuẩn bị công bố 11 bài báo trên các tạp chí y học quốc tế, 9 bìa báo công bố trên tạp chí y học trong nước, xuất bản quy trình kỹ thuật nghiên cứu KSTSR kháng thuốc và các kỹ thuật liên quan khác.
Hoạt động nghiên cứu bệnh ký sinh trùng
Yên Bái là một trong những tỉnh thuộc miền núi phía Bắc có điều kiện kinh tế chưa phát triển, bình quân thu nhập đầu người hàng năm thấp, vệ sinh môi trường chưa được cải thiện nên tỷ lệ nhiễm các bệnh giun sán cao, nhất là giun móc trên 70%. Từ năm 2005-2008 phần Dự án phòng chống các bệnh ký sinh trùng thực hiện “phòng chống giun móc và thiếu máu thiếu sắt cho phụ nữ tuổi sinh sản” đã được triển khai tại hai huyện Trấn Yên và Yên Bình (Yên Bái) với mô hình y tế tuyến tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện và giám sát hoạt động dự án tại tỉnh, y tế huyện có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo và giám sát hoạt động dự án tại huyện, tuyến y tế xã và y tế thôn bản thực hiện tại cộng đồng về các nội dung của dự án.
Qua 4 năm thực hiện dự án đã tập trung vào tập huấn cho cán bộ y tế tuyến tỉnh về kỹ năng giảng dạy và các kỹ thuật xét nghiệm; tuyến huyện/xã/thôn bản về nguyên nhân, tác hại và các biện pháp phòng chống giun móc và thiếu máu, thiếu sắt; kỹ năng truyền thông và phương pháp tổ chức uống thuốc tại cộng đồng. Thực hiện công tác truyền thông phòng chống bệnh giun móc và thiếu máu, thiếu sắt bằng các kênh phù hợp với đồng bào dân tộc tại địa phương; tổ chức các đợt chiến dịch uống thuốc tẩy giun và uống viên sắt + axit folic cho cộng đồng tại địa bàn nghiên cứu.
Kết quả thực hiện dự án tại huyện Trấn Yên và Yên Bình đã giảm tỷ lệ nhiễm giun móc từ 76% (2005) xuống còn 56% (2006) và 25% (2007); giảm tỷ lệ thiếu máu từ 38% (2005) xuống còn 27% (2006) và 19% (2007). Từ kết quả này cuối năm 2007 phạm vi dự án được mở rộng ra toàn tỉnh Yên Bái nhằm bảo vệ cho 250.000 phụ nữ lứa tuổi sinh sản (từ 16-45 tuổi) và hiệu quả đã giảm thấp được tỷ lệ nhiễm giun móc cũng như tình trạng thiếu máu, thiếu sắt ở các đối tượng này.
Để đánh giá cụ thể hiệu quả của dự án tại địa phương, ngày 8/8/2009 Dự án hợp tác Việt Nam-Australia sẽ tổ chức riêng một hội nghị chuyên đề về phòng chống bệnh giun móc tại tỉnh Yên Bái.
Dự án tăng cường năng lực nghiên cứu phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng tại Việt Nam đã kết thúc, được Bộ Y tế và các địa phương tham gia dự án đánh giá cao vì mang lại nhiều lợi ích trong công cuộc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Dự án sẽ xem xét các nhu cầu nghiên cứu cũng như thực trạng bệnh sốt rét, bệnh ký sinh trùng ở Việt Nam để tiếp tục hỗ trợ một dự án mới trong các năm tiếp theo.