Cơ quan Phòng tránh và kiểm soát bệnh (CDC) Hoa Kỳ vừa mới cập nhật và phổ biến vào tháng 2 năm 2011 lịch chủng ngừa một số bệnh truyền nhiễm. Tại Hoa Kỳ, lịch tiêm chủng này đã được Cơ quan CDC, Viện Nhi đồng và Viện Y khoa gia đình thiết lập. Thông tin này là nội dung để tham khảo.
Chủng ngừa có mục đích tạo khả năng bảo vệ với một bệnh nào đó bằng cách dùng vaccine hoặc chất đặc biệt mà cơ thể coi là vật lạ có tiềm năng nguy hiểm gọi là kháng nguyên. Vaccine hoặc các chất này sẽ kích thích cơ thể tạo ra các chất chống lại bệnh gọi là kháng thể tương ứng. Vaccine được sản xuất bằng cách nuôi cấy vi khuẩn hoặc virus trong các điều kiện làm giảm mất độc tính của chúng mà không mất đi khả năng tạo ra kháng thể.
Tiêm chủng là một biện pháp rất công hiệu để phòng tránh sự nhiễm bệnh. Có những bệnh mà vào đầu thế kỷ trước đã hoành hành dữ dội gây nhiều tử vong ở khắp nơi thì ngày nay đã bị loại trừ tại nhiều quốc gia như bệnh sởi, tê liệt trẻ em, đậu mùa.
Thuốc chủng ngừa có thể gây ra một số phản ứng phụ nhưng rất nhẹ như chỗ chích hơi sưng đau, nhiệt độ cơ thể hơi tăng cao nhưng không kéo dài lâu ngày. Với các trẻ nhỏ, khi gặp trường hợp này, có thể cho trẻ uống một liều thuốc giảm sốt như acetaminophen ( Tylenol). Cần chú ý không nên cho trẻ dùng thuốc giảm sốt loại Aspirin. Ngoài ra nên cho trẻ uống nhiều nước để hạ nhiệt, mặc quần áo thoáng nhẹ, chườm khăm tẩm nước ấm...
Trong rất ít các trường hợp mới có phản ứng mạnh như khó thở, hạ huyết áp, nổi mẩn ngứa khắp người, ngất xỉu ngay sau khi tiêm chủng. Khi gặp các trường hợp bị phản ứng mạnh và bất thường như vậy, nên nhớ rằng không được chủng ngừa với thuốc tiêm chủng đó nữa.
Khi trẻ nhỏ có các dấu hiệu sau đây thì nên thông báo ngay cho bác sĩ để xử trí kịp thời:
- Nhiệt độ của cơ thể bằng hoặc trên 39oC;
- Da xanh tái và trẻ bị đi cà nhắc
- Trẻ khóc liên tục cả mấy giờ liền sau khi chích ngừa;
- Cơ thể trẻ nhỏ bị run, giật.
Các trẻ em bị bệnh ung thư, bị nhiễm HIV/AIDS cũng không được tiêm chủng loại thuốc trong đó mầm bệnh bị làm suy yếu, như thuốc chủng bệnh sởi, quai bị, thủy đậu, tê liệt...
Đối với trẻ em đang bị đau ốm thì tùy theo trường hợp để chỉ định. Nếu bệnh nặng với cơn nóng sốt cao vì nhiễm trùng thì hoãn lại việc chủng ngừa cho tới khi trẻ bình phục. Khi trẻ em chỉ bị bệnh nhẹ như viêm tai, ho, sổ mũi, tiêu chảy... thì đều có thể chủng ngừa được. Các bác sĩ hoặc nhân viên y tế sẽ có khuyến cáo và chỉ định phù hợp.
Khi didu lịch tới các quốc gia đang phát triển, nên chích ngừa một số bệnh như viêm gan B, tiêu chảy, thương hàn, sốt vàng da (yellow fever), viêm não Nhật Bản (Japanese encephalitis).
Nhiều người lớn tuổi cho rằng khi còn nhỏ đã chích ngừa đầy đủ các loại vaccine thì sẽ được bảo vệ lâu dài với các bệnh truyền nhiễm. Điều này cũng có thể đúng, ngoại trừ các trường hợp sau đây:
- Có một số người trước đây chưa bao giờ được chích ngừa nhưng không nhớ.
- Có nhiều loại vaccine chủng ngừa mới được sản xuất mà trước đây chưa có.
- Tính miễn dịch của cơ thể có thể giảm dần với tuổi ngày càng tăng.
- Với tuổi càng lớn, cơ thể cũng dễ bị nhiễm một số loại bệnh hiểm nghèo như cúm, viêm phổi...
Do đó người lớn tuổi cần cập nhật và tiêm chủng các loại vaccine còn thiếu để tăng cường khả năng bảo vệ.
Trẻ nhỏ từ 6 tháng trở lên đều cần tiêm phòng ngừa cúm vào mỗi mùa cúm. Nếu là tiêm chủng ngừa lần đầu, các trẻ nhỏ từ 6 tháng tới 8 tuổi cần tiêm 2 liều, cách nhau ít nhất 4 tuần lễ. Nếu trong mùa cúm đầu tiên mới chỉ tiêm 1 lần thì vào mùa cúm sau cũng phải tiêm 2 lần. Các bác sĩ sẽ có chỉ định và hướng dẫn đầy đủ về việc tiêm chủng.
Lịch tiêm chủng từ lúc mới sinh đến 6 tuổi
Tuổi Vaccin | Mới sinh | 1 tháng | 2 tháng | 4 tháng | 6 tháng | 12 tháng | 15 tháng | 18 tháng | 19-23 tháng | 2-3 tuổi | 4-6 tuổi |
Viêmgan B | Liều 1 | Liều 2 | | Liều 3 | | | |
Tiêu chảy | | | Liều 1 | Liều 2 | Liều 3 | | | | | | |
Yết hầu,Uốn ván, Ho gà | | | Liều 1 | Liều 2 | Liều 3 | | Liều 4 | | | Liều 5 |
Cúm loại B | | | Liều 1 | Liều 2 | Liều 3 | Liều 4 | | | | |
Viêm phổi | | | Liều 1 | Liều 2 | Liều 3 | Liều 4 | | | Trẻ có rủi ro bị bệnh |
Tê liệt trẻ em | | | Liều 1 | Liều 2 | Liều 3 | | | Liều 4 |
Cúm | | | | | Chích ngừa cúm hàng năm một lần |
Sởi, Quai bị, Ban đào | | | | | | Liều 1 | | Liều 2 |
Thủy đậu | | | | | | Liều 1 | | Liều 2 |
Viêm gan A | | | | | | 2 liều cách nhau 6 tháng | Trẻ có rủi ro bị bệnh |
Viêm màng não | | | | | | | | | | Trẻ có rủi ro bị bệnh |
Lịch tiêm chủng từ 7 tuổi đến 18 tuổi
Vaccine | 7-10 tuổi | 11-12 tuổi | 13-18 tuổi |
Uốn ván. Bạch hầu, Ho gà | | Uốn ván, Yết hầu, Ho gà | |
Human Papillomavirus | | 3 liều cho bé gái | |
Viêm màng não | Trẻ em có rủi ro bị bệnh | Liều 4 | Liều 5 |
Cúm hàng năm | Chích ngừa cúm hàng năm |
Viêm phổi | Trẻ em có nguy cơ mắc bệnh |
Viêm gan A | Trẻ em có nguy cơ mắc bệnh |
Viêm gan B | Viêm gan B các liều |
Bại liệt | Bại liệt |
Sởi, Quai bị, Ban đào | Sởi,Quai bị, Ban đào |
Thủy đậu | Thủy đậu |
Lịch tiêm chủng cho người lớn
Vaccine | 19-26tuổi | 27-49 tuổi | 50-59 tuổi | 60-64tuổi | Từ 65 tuổitrở lên |
Cúm hàng năm | Mỗi năm 1 liều |
Uốn ván, Yết hầu, Ho gà | | Ngừa uốn ván mỗi 10 năm |
Thủy đậu | 2 liều |
Siêu vi Human papillomavirus (HPV) | 3 liều cho nữ giới | | | | |
Bệnh Zona thần kinh (Zoster) | | | | 1 liều |
Sởi, Quai bị, Ban đào | 1 hoặc 2 liều | 1 liều |
Viêm phổi (polysaccharide) | 1 hoặc 2 liều | 1 liều |
Viêm màng não | 1 hoặc 2 liều |
Viêm gan A | 2 liều |
Viêm gan B | 3 liều |
| | | | | | |
Kết luận
Mặc dù con người đã biết được nhiều nguyên nhân gây bệnh, đã sống điều độ, vệ sinh và y học đã cống hiến nhiều phương tiện, biện pháp để phòng ngừa bệnh tật nhưng bệnh tật vẫn luôn luôn rình rập, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là xâm nhập cơ thể con người.
Vì vậy việc phòng ngừa bệnh tật bằng biện pháp tiêm chủng vẫn còn là một phương tiện rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe. Câu nói “An ounce of prevention is worth a pound of cure” hoặc “Phòng bệnh hơn chữa bệnh” vẫn là nguyên lý trong y học và y tế của nhiều quốc gia. Giáo sư Nhi khoa Samuel Katz của Trung Tâm Y Khoa Duke University-USA, người có nhiều kinh nghiệm về vấn đề tiêm chủng, đã quả quyết “Tạo ra tính miễn dịch là phương tiện hữu hiệu duy nhất để làm giảm số bệnh tật và số tử vong ở trẻ em”.