Sức khỏe là gì?
Trước đây một số tác giả đã đưa ra một số định nghĩa về sức khỏe nhưng chưa đầy đủ như: Sức khỏe là một trạng thái vật lý và tinh thần miễn nhiễm được một cách tương đối sự lo lắng và đau đớn, giúp cho cá nhân hoạt động một cách tốt nhất có thể trong môi trường sống của mình. Có sức khỏe tức là có khả năng thích ứng với môi trường hoặc chịu đựng được trước những biến đổi của nó (René Dubos). Có sức khỏe là có ham muốn hành động, một tinh thần đơn giản, một ý thức cao đẹp (Henri Bergson). Có sức khỏe chính là khi các bộ phận, các cơ quan trong cơ thể chúng ta sống trong sự im lặng (René Leriche)
Sức khỏe, theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật.
Mọi người đều công nhận rằng những vấn đề sức khỏe có nhiều nguyên nhân đa dạng và chúng tương tác lẫn nhau. Những nguyên nhân này có thể là các yếu tố bên trong như: Di truyền, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, thói quen sống, những hành vi sức khỏe cá nhân…hoặc các yếu tố bên ngoài như:Điều kiện môi trường, điều kiện sống và làm việc, Chính trị-Kinh tế-Xã hội, những chính sách y tế không phù hợp, giảm các chương trình y tế hoặc các dịch vụ y tế…
Từ ngày 6-12/9/1978, tại Alma - Ata (Cadắcxtan), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tổ chức hội nghị quốc tế, có đại diện của 134 quốc gia (trong đó có Việt Nam) và 67 tổ chức quốc tế tham dự. Hội nghị đã đề ra chiến lược “Sức khoẻ cho mọi người đến năm 2000” (còn gọi là Tuyên ngôn Alma - Ata) và để thực hiện chiến lược đó, Hội nghị đã đề ra 8 nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ) là: (1) Giáo dục sức khoẻ (GDSK) (2) Dinh dưỡng hợp lý và vệ sinh thực phẩm (3) Cung cấp nước sạch và thanh khiết môi trường (4) Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình (5) Tiêm chủng mở rộng phòng chống 6 bệnh truyền nhiễm ở trẻ em (6) Phòng và chống các bệnh dịch và bệnh xã hội (7) Chữa bệnh tại nhà và xử trí các vết thương thông thường (8) Đảm bảo thuốc thiết yếu.
Tám năm sau (năm 1986), tại hội nghị quốc tế được tổ chức tại Ottawa (Canada), WHO đã đưa ra Sáng kiến Ottawa (còn gọi là Hiến chương Ottawa) về Nâng cao sức khoẻ (NCSK). Vậy, NCSK có gì mới so với GDSK?
Giáo dục sức khoẻ (GDSK) (Health Education) và Nâng cao sức khoẻ (Health Promotion)
GDSK là một hoạt động quan trọng và là một bộ phận không thể tách rời của chăm sóc sức khoẻ. Có nhiều định nghĩa về GDSK: Theo Từ điển thuật ngữ y học, GDSK được định nghĩa như là các cơ hội học tập được tạo ra một cách có ý thức, cần đến một hình thức giao tiếp nào đó, được thiết lập để nâng cao sự hiểu biết về sức khoẻ, kể cả việc nâng cao tri thức và phát triển kỹ năng sống, hỗ trợ cho sức khoẻ của mỗi người cũng như của cả cộng đồng.
Theo Green (1980) định nghĩa GDSK là sự tổng hợp các kinh nghiệm nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người dân chấp nhận một cách tự nguyện các hành vi có lợi cho sức khỏe.
Trong một thời gian dài, GDSK được các cơ sở y tế và cán bộ y tế thực hiện lồng ghép với các hoạt động chuyên môn, không có tổ chức chuyên trách làm GDSK và không có chương trình hoạt động rõ ràng. Sau hội nghị Alma - Ata năm 1978, vai trò của GDSK mới được xác định đúng, có tổ chức chuyên trách làm GDSK và chương trình hoạt động GDSK hàng năm hoặc dài hạn được xây dựng. Tuy nhiên, GDSK mới chỉ quan tâm nhiều đến các yếu tố bên trong của sự thay đổi hành vi (tác động đến cá nhân là chính), nhằm cung cấp cho người dân những kiến thức về sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ, mà chưa quan tâm đúng mức tới các yếu tố bên ngoài (vai trò của nhà nước, cộng đồng...) là những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ cho việc thay đổi hành vi và duy trì bền vững hành vi mới.
Trong Hiến chương Ottawa năm 1986, NCSK được định nghĩa như là một quá trình cho phép con người tăng khả năng kiểm soát và cải thiện sức khoẻ của mình. Chi tiết hơn, nguyên lý thực hiện Nâng cao sức khỏe nằm ở 3 hoạt động chính:
- Vận động ủng hộ (Advocate): đây là hoạt động nhằm thúc đẩy sự hình thành các chính sách mang lại sức khỏe cho người dân.
- Tạo khả năng (Enable): là hoạt động nhiều mặt, bao gồm tạo môi trường thuận lợi, cung cấp thông tin, hướng dẫn kỹ năng sống và tạo ra các cơ hội, giúp người dân có khả năng chọn lựa những điều có lợi cho sức khỏe.
- Trung gian liên kết (Mediate): tạo điều kiện kết nối những ban ngành, tổ chức, tập thể khác nhau nhằm tăng cường sự phối hợp để tạo được hiệu quả tốt cho sức khỏe người dân hết mức có thể.
Nền tảng ý thức luận của NCSK có thể tóm tắt bằng 5 điểm, được rút ra từ hiến chương Ottawa như sau:
1. Sức khỏe phải được nhìn nhận một cách toàn diện như là một trạng thái tích cực; nó là chất liệu để con người có thể đạt được mục tiêu tối hậu là một cuộc sống phong phú về xã hội và kinh tế.
2. Sức khỏe không thể đạt được cũng như bệnh tật không thể phòng ngừa và kiểm soát trừ phi những bất bình đẳng giữa và trong các quốc gia cũng như nhóm xã hội được giải quyết.
3. Một quốc gia khỏe mạnh không chỉ là một quốc gia có sự phân phối công bằng các nguồn lực mà là một quốc gia có cộng đồng chủ động tích cực tham gia mạnh mẽ vào việc tạo ra những điều kiện cần thiết cho những con người khỏe mạnh.
4. Sức khỏe là rất quan trọng đến mức không thể để một mình những nhân viên y tế gánh vác. Cần thấy một điều quan trọng đó là rất nhiều dịch vụ công và tư cũng như nhiều tổ chức khác nhau ảnh hưởng khiến sức khỏe trở nên tốt hơn hay xấu đi. Thêm vào đó, các dịch vụ y tế thường không đáp ứng các nhu cầu của công chúng. Hơn nữa, còn xem họ như là những đối tượng tiếp nhận sự chăm sóc một cách thụ động và do đó làm giảm năng lực nội tại của người dân. Mô hình hoạt động chủ yếu của NCSK là tạo khả năng giúp thực hiện hơn là ép buộc, quan tâm đến sự hợp tác hơn là sự tuân phục.
5. Sức khỏe của con người không phải chỉ là trách nhiệm của cá nhân mà còn bị tác động bởi môi trường vật lý, xã hội, văn hóa, kinh tế. Đổ hết trách nhiệm lên cá nhân trong khi bỏ qua những hoàn cảnh xã hội và môi trường sống khiến họ bệnh tật là một chiến lược không đúng đắn, thậm chí là vô đạo đức. Nói một cách khác, đó chính là “đổ lỗi cho nạn nhân” (victim blaming). Vì những lý do này, xây dựng “chính sách công cộng lành mạnh” được xem là trái tim của NCSK.
Tuyên ngôn Jakarta trong Hội nghị Quốc tế về NCSK lần 4 tại Jakarta – Indonesia (1997) khẳng định lần nữa nguyên lý của Hiến chương Ottawa và đưa ra những định hướng ưu tiên của NCSK trong thế kỷ 21 như sau:
1. Thúc đẩy trách nhiệm xã hội cho sức khỏe. Các cơ quan CSSK công và tư thúc đẩy SK bằng cách theo đuổi chính sách và thực hành:
üTránh gây hại sức khỏe cá nhân
üBảo vệ môi trường, sử dụng nguồn lực 1 cách bền vững.
üGiảm các sản phẩm gây hại như thuốc lá và vũ khí.
üBảo vệ mọi người trong thị trường và cá nhân nơi làm việc.
üĐánh giá tác động tạo công bằng y tế như một phần tích hợp của phát triển chính sách.
2. Gia tăng đầu tư phát triển y tế cho mọi ngành
3. Củng cố và mở rộng đối tác trong y tế
4. Tăng năng lực cộng đồng và nâng cao năng lực cá nhân
5. Đảm bảo các cơ sở hạ tầng cho NCSK.
Như vậy, so với GDSK thì NCSK là một khái niệm rộng hơn và tích cực hơn do nhấn mạnh tới các nguồn lực của cả cá nhân, cộng đồng và xã hội, đề cập đến cả giáo dục, chính trị, kinh tế và văn hoá... NCSK là một giải pháp tổng thể bao gồm sự hài hoà giữa cá thể và cộng đồng, giữa con người và môi trường, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong việc tự chăm sóc sức khoẻ bản thân và tham gia chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. NCSK không những chú trọng tới hành vi lối sống của con người mà còn chú trọng đến cả môi trường sống, đường lối, chính sách... tạo môi trường thuận lợi cho tăng cường sức khoẻ. Do vậy, NCSK hiệu quả hơn, bền vững hơn. Như vậy, GDSK chỉ là một bộ phận cấu thành của NCSK.
Nâng cao sức khoẻ trên thế giới
Ủng hộ Sáng kiến Ottawa, nhiều nước tiên tiến ở trên thế giới (Thụy Điển, Australia, Newzealand) và một số nước trong khu vực Đông Nam Á (Singapore, Thái Lan, Malaysia) đã triển khai các hoạt động NCSK theo sáng kiến này đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan.
Tại Australia, Victoria là bang nằm ở phía nam nước Úc, với thủ phủ là Melbourne, có một tổ chức rất nổi tiếng gọi là Vichealth (tên đầy đủ là Victorian Health Promotion Foundation, có nghĩa là Tổ chức Nâng cao Sức khỏe bang Victoria) nhận kinh phí từ nhiều nguồn. Trong đó, có ngân sách để thực hiện hoặc tài trợ các chương trình y tế công cộng. Vichealth được thành lập năm 1987, đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực phòng chống thuốc lá sau đó đã mở rộng ra rất nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau.
Ở bang Victoria và đặc biệt là ở Melbourne đại đa số các tổ chức hoạt động về y tế công cộng ở Victoria đều hoạt động theo định hướng Nâng cao sức khỏe. Đặc biệt, các bệnh viện hoặc trung tâm y tế chuyên khoa, trung tâm sức khỏe cộng đồng không chỉ cung cấp các dịch vụ lâm sàng, điều trị mà còn mở rộng ra các hoạt động tiếp cận và huy động cộng đồng tham gia vào việc chăm sóc sức khỏe cho chính cộng đồng của họ.Nhìn chung, các chương trình y tế công cộng theo định hướng nâng cao sức khỏe được thực hiện khá bài bản và đã mang lại hiệu quả cao.
Vào tháng 2/1996, Viện nghiên cứu hệ thống y tế Thái Lan, trên những cơ sở pháp lý và các nghiên cứu về mặt Y - Xã hội học; được sự hỗ trợ của WHO, đã khởi động chương trình NCSK. Tháng 8/2001, Chính phủ Thái Lan đã ban hành Nghị định thành lập Quỹ NCSK Thái (Thai Health Promotion Foundation - THPF) và được Quốc hội thông qua Luật này vào tháng 11/2001. Theo đó, chính phủ sẽ trích 2% tổng số thuế thu từ rượu và thuốc lá của các Tập đoàn và Công ty kinh doanh mặt hàng này cho hoạt động của THPF. THPF có hai ban, Ban điều hành có 21 thành viên do Chính phủ bổ nhiệm, Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, Bộ trưởng Y tế là Phó trưởng ban thứ nhất và Ban đánh giá có 7 thành viên cũng do Chính phủ bổ nhiệm. THPF dùng nguồn tài chính đó để triển khai các hoạt động NCSK, trong đó có việc chống lạm dụng rượu bia và tác hại của thuốc lá. Tất cả các Viện Nghiên cứu, Trường Đại học, các tổ chức y tế - xã hội và cá nhân đều được tham gia các hoạt động NCSK bằng cách xây dựng dự án gửi cho THPF. Ban đánh giá sẽ thẩm định các dự án dựa trên tính cấp thiết, khả năng của tổ chức, cá nhân chủ dự án và tính khả thi của nó sẽ cấp kinh phí hoạt động Dự án. Khi kết thúc dự án, đơn vị thực hiện dự án tổ chức tổng kết, đánh giá, nộp báo cáo hoạt động và quyết toán kinh phí. Ban đánh giá thẩm định kết quả và đánh giá hiệu quả dự án. Các tổ chức và cá nhân nào làm tốt sẽ được cấp kinh phí để tiếp tục hoạt động và nếu vi phạm các qui định về tài chính sẽ bị xử lý theopháp luật.
Năm 2002, được sự hỗ trợ của WHO, Ủy ban NCSK Malaysia (Malaysian Health Promotion Board - MHPB) được thành lập, trực thuộc Quốc hội, có 17 thành viên là đại diện của Chính phủ, các bộ ngành (trong đó Bộ Y tế làm nòng cốt) và các tổ chức có liên quan. Trưởng MHPB do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. MHPF đang chủ trì xây dựng dự thảo Luật, trong đó đề nghị trích 5% tổng số thuế thu được từ rượu và thuốc lá cho hoạt động của MHPF.
Năm 2008, Bộ Giáo dục và phát triển nhân lực Hàn Quốc công bố chính sách 5 năm nhằm nâng cao sức khỏe cho học sinh, từ việc quản lý bữa ăn trường học đến việc cải thiện cảnh quan nhà trường. Theo đó, các trường học sẽ phải công khai lượng dinh dưỡng trong các bữa ăn ở trường để học sinh biết được những gì họ ăn. Các trường học ở Hàn Quốc sẽ bị cấm bán hoặc cung cấp nước ngọt cho học sinh. Đồng thời, các thực phẩm như mì và đồ ăn rán cũng bị hạn chế trong bữa ăn ở trường học.
 |
Học sinh tiểu học Hàn Quốc |
Bộ Giáo dục và quản lý nhân lực Hàn Quốc sẽ kiểm tra môi trường ở các trường trong đó có việc theo dõi chất lượng không khí trong lớp, chất lượng nước uống, kiểm tra tiếng ồn, chất amiăng và bụi. Đến năm 2010, chương trình khám tâm thần cho học sinh sẽ được thực hiện ở tất cả các trường học. Các nhà trường sẽ khám các bệnh và các chứng tật ở học sinh như trầm cảm, lo lắng, hút thuốc, uống rượu, sử tụng ma túy và nghiện Internet. Những học sinh bị các chứng tật này sẽ được tư vấn và điều trị.
Nâng cao sức khoẻ ở Việt Nam
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) luôn quan tâm và ủng hộ các hoạt động của ngành y tế trong đó có NCSK. Từ năm 1996, WHO đã phối hợp với Bộ Y tế tổ chức Hội thảo về NCSK tại Hà Nội và hỗ trợ kinh phí để triển khai các hoạt động NCSK. Về lĩnh vực y tế công cộng, WHO hỗ trợ nâng cao năng lực cho cán bộ tại các tỉnh thực hiện dự án xây dựng mô hình “Làng Văn hóa - Sức khỏe” và một số tỉnh, thành phố khác. Năm 2004, WHO đã tài trợ kinh phí và phối hợp với Trung tâm Truyền thông GDSK, Bộ Y tế tổ chức 02 lớp tập huấn về Nâng cao sức khỏe tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, WHO tài trợ kinh phí triển khai tiểu dự án Nâng cao sức khoẻ ở 31 đơn vị thuộc 16 tỉnh, thành phố (19 đơn vị y tế tuyến tỉnh và 12 đơn vị y tế tuyến huyện) thuộc 6 tỉnh dự án “Làng Văn hóa - Sức khoẻ” và các tỉnh mở rộng. Sau một năm thực hiện, đến cuối năm 2005, tất cả các đơn vị triển khai đều đạt mục tiêu đề ra, được các chuyên gia độc lập (do WHO mời) đánh giá cao. Năm 2006, Trung tâm Truyền thông GDSK, Bộ Y tế tiếp tục được WHO tài trợ kinh phí để chỉ đạo triển khai tiểu dự án NCSK tại 17 đơn vị thuộc 16 tỉnh, thành phố, trong đó có hai huyện (triển khai trên địa bàn toàn huyện). Về lĩnh vực điều trị, năm 2006, WHO tài trợ cho Bệnh viện E (trực thuộc Bộ Y tế dự án xây dựng Bệnh viện NCSK, giai đoạn đầu triển khai thí điểm ở Bệnh viện E và Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai. Một trong những hoạt động then chốt để xây dựng Bệnh viện NCSK là đẩy mạnh công tác GDSK trong bệnh viện. Để khởi động dự án, ngày 13-14/4/2006, tại Hà Nội, Bộ Y tế phối hợp với WHO tổ chức Hội thảo Quốc gia về GDSK trong bệnh viện.
Tiếp đó, ngày 17-18/8/2006, tại Sapa (Lào Cai), Bộ Y tế phối hợp với WHO và Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai tổ chức Hội thảo khu vực về GDSK và Hội nghị khoa học thực hành bệnh viện khu vực Tây Bắc.
Ngày 5/7/2007 đến ngày 7/7/2007 tại Tp. Hạ Long,Khoá tập huấn về “ Nâng cao sức khoẻ” do Cục Khám chữa bệnh, Bộ y tế tổ chức với sự hỗ trợ kinh phí của Tổ chức Y tế Thế giới. Thành viên tham gia của lớp tập huấn bao gồm các giáo sư bác sĩ, đến từ Viện Lão khoa, Viện Tim mạch, Viện Dinh dưỡng, Bệnh viện K, Bệnh viện Nội tiết, Bệnh viện Nguyễn Trãi Tp. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Nhân dân 115 Tp.HCP, Phó Giáo sư Bernie Marshall đến từ Trường Đại học Deakin. Khoá tập huấn đã tập trung vào khái niệm cơ bản về nâng cao sức khoẻ, cách xác định các vấn đề sức khoẻ ưu tiên cũng như cách thức xây dựng khung hành động về nâng cao sức khoẻ.
Ngày 5-6/6/2008, Hội thảo chuyên đề về chăm sóc sức khoẻ của các nước ASEAN lần thứ hai do Royal Philips Electronics phối hợp với Tạp chí BusinessWeek đã được tổ chức tại Hà Nội. Đây là sự kiện tiếp nối hội thảo thảo luận về y tế và chăm sóc sức khoẻ mà trọng tâm là việc Nâng cao sức khỏe được tổ chức năm 2007 tại Kuala Lumpur.
 |
PGS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến- Thứ trưởng Bộ Y tế tại buổi khai mạc Hội nghị CSSK. |
Ngày 19/12/2008, tại Hải Dương đã diễn ra Hội thảo khoa học về “Bệnh viện nâng cao sức khoẻ” do Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương, Bệnh viện E (Hà Nội) phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)tổ chức. Tiến sĩ LokKy Wai - Phó Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam cho biết bệnh viện nâng cao sức khoẻ là bệnh viện hướng tới nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ bằng việc tiến hành các hoạt động giáo dục sức khoẻ, phòng bệnh và phục hồi chức năng trong bệnh viên mà không chỉ nhằm vào điều trị. Tại hội thảo khoa học với chủ đề “Tập huấn về bệnh viện nâng cao sức khoẻ”, Tiến sĩ LokKy Wai cũng cho biết bệnh viện phải coi sức khoẻ là một khía cạnh quan trọng của chất lượng dịch vụ bệnh viện cũng như trong việc bảo đảm an toàn và tính hiệu quả của điều trị. Các nhà khoa học tham dự hội thảo báo cáo kết quả mới về "bệnh viện nâng cao sức khỏe" trong ứng dụng, điều trị cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.
Ngày 30/3/2009, Cục Y tế dự phòng và Môi trường - Bộ Y tế phối hợp với Quỹ Unilever Việt Nam đã tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động dự án "Nâng cao sức khỏe cộng đồng thông qua việc cải thiện hành vi vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường" năm 2008 và hướng dẫn các địa phương lập kế hoạch năm 2009.
Thay cho lời kết
Như vậy, ở Việt Nam NCSK cũng đã được triển khai nhưng ở quy mô chưa lớn, chỉ dừng lại cấp độ Dự án và chưa có chính sách cụ thể. Các nhà hoạch định chính sách y tế và các cơ quan chức năng cần đề nghị Quốc hội, Chính phủ, Bộ Y tế đưa ra những chính sách cụ thể và mô hình NCSK phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta hiện nay nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược Chăm sóc và Bảo vệ sức khỏe nhân dântrong giai đoạn hiện nay.