Nhóm tác giả gồm K Ashrafi, MA Valero, K Forghan-Parast,M Rezaeian,S.J Shahtaheri, MRHadiani, MD Bargues, S Mas - Coma đang công tác tại Khoa Vi trùng y học, Đại học y khoa, đại học khoa học y học Gilan, Rasht, Iran; bộ phận Ký sinh trùng, khoa dược, đại học Valencia, Tây Ban Nha; khoa Vi nấm và ký sinh trùng, y tế công cộng, đại học khoa học y học Tehran, Iran; khoa Sức khỏe bệnh nghề nghiệp, y tế công cộng, đại học khoa học y học Tehran, Iran; Đơn vị phòng chống bệnh tật, Trung tâm y tế Bandar-Anzali, tỉnh Gilan, Iran. Dưới đây là bài lược dịch từ bản nghiên cứu của các tác giả trên.
Ăn phải các metacercariae giai đoạn gây nhiễm, dính vào các rau cải xoong hoặc các loại rau thủy sinh hoặc rau mọc trên mặt đất (aquatic and terrestrial plants), đã hàm ý như một nguồn chính gây nhiễm cho người với bệnh sán lá gan lớn. sự có mặt của một số loại rau mọc hoang dại, làm món rau ăn sống trên bàn ăn hoặc dùng các thức ăn làm từ thực vật (Delar, trộn muối với các thực vật mọc trên mặt đất, như một hỗn hợp nước sền sệnt và Zeitoon-Parvardeh; dầu oliu trong sốt cây hồ đào, như một món ăn khai vị) đã cho thấy đóng một vai trò nhiễm bệnh ở người trong các vùng lưu hành bệnh sán lá gan lớn (SLGL) ở tỉnh Gilan, phía bắc Iran. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm đánh giá tác động của các thành phần được sử dụng như các mon ăn địa phương lên sự sống còn và tính nhiễm của metacercariae SLGL. Các metacercariae cho nghiên cứu này thu nhận từ các con ốc Lymnaea gedrosiana được gây nhiễm thực nghiệm, thu thập từ vùng lưu hành bệnh Bandar Anzali. Khả năng sống và tính dễ lây nhiễm (viability and infectivity) của metacercariae duy trì ở trong Zeitoon-Parvardeh và Delar được phân tích vi thể và qua các thử nghiệm nhiễm trên động vật. Kết quả chỉ ra khả năng nhiễm ở người sau khi ăn phải các thức ăn truyền thống này khi chế biến từ rau tươi có dính metacercariae.
Nhiễm sán lá truyền qua thức ăn, bao gồm cả sán lá gan lớn (SLGL) là những vấn đề y tế công công hay gặp trên thế giới. Trong hai thập niên qua, tầm quan trọng của bệnh SLGL tăng lên một cách đáng kể, với số ca được báo cáo lên tại 51 quốc gia thuộc 5 lục địa toàn cầu. Nhiễm SLGL lớn ở người sau khi ăn uống phải các rau thủy sinh hoặc nước nhiễm nang ấu trùng metacercariae giai đoạn nhiễm của sán Fasciola spp. Cải xoong là một trong những giá thể truyền bệnh hay gặp nhất, nhưng nhiều nghiên cứu gần đây cho biết có nhiều loài khác của rau tươi cũng đóng vai trò truyền bệnh tại một số vùng địa lý khác nhau. Tại Iran, sán lá gan lớn có mặt rải rác mãi cho đến năm 1987 khi một vụ dịch ở tỉnh Gilan xảy ra và ảnh hưởng hơn 10.000 người. Một vụ dịch thứ 2 xảy ra khoảng 10 năm sau đó và lại một lần nữa, hàng ngàn người bị nhiễm. Hàng trăm ca được báo cáo mỗi năm giữa 2 vụ dịch và sau đó thông qua các số liệu từ trung tâm y tế Rasht và Bandar-Anzali, cho thấy tính lưu hành bệnh và tầm quan trọng của y tế công cộng tại khu vực phía bắc của Iran. Trong những vùng lưu hành của Gilan, vài loại rau hoang dại (Eryngium spp. và Mentha spp.) dùng rất phổ biến trong các bữa ăn, hoặc trộn với cây hồ đào (cây óc chó), nhiều loại khác như tỏi và dầu oliu như một món khai vị, gọi là Zeitoon-Parvardeh hoặc có thể dùng với số lượng lớn muối với các hồ bột thảo dược, gọi là Delar. Lượng muối dùng trong món ăn Delar rất cao, nên có tên gọi theo địa phương là muối xanh “green salt”. Lượng muối và loại rau trong món Delar một chút, lệ thuộc vào khẩu vị của từng người ở các vùng khác nhau. Thường lượng muối chiếm 30-40% trong món hồ bột. Các lọai rau thơm được xem là nguồn nhiễm chính cho các nhân công vùng này trước đây được người dân làng trồng quanh năm trên các lối đi trong vườn và dọc hai bên đường. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định thành phần sử dụng trong các món ăn truyền thống của họ lên khả năng sống sót và tính lây nhiễm của metacercariae sán lá gan lớn.
Nghiên cứu này được thực hiện tại khoa Vi trùng y học, đại học Khoa học y học Gilan và khoa vi nấm-ký sinh trùng y học, đại học khoa học Tehran, Iran phối hợp với Khoa ký sinh trùng, Đại học Valencia, Tây Ban Nha. Metacercariae được thu nhận nhờ vào gây nhiễm thực nghiệm ốc L. gedrosiana thu thập từ môi trường tự nhiên ở trong nước tại Bandar-Anzali. Trứng của sán Fasciolagigantica, lấy từ túi mật của gia súc từ các lò mổ ở Bandar-Anzali, sử dụng để chuẩn bị cho ra miracidia gây nhiễm 150 con ốc nhiễm metacercariae trong nghiên cứu đối với chuột. Mặt khác, trứng thu được từ tử cung của các con sán F. gigantica trưởng thành, lấy từ các lá gan của các gia súc nhiễm ở địa phương quận Rasht (thủ phủ tỉnh Gilan) được nuôi cấy và miracidia được sinh ra, dùng gây nhiễm 120 ốc nhiễm metacercariae trong nghiên cứu trên chuột hamsters. Các ốc được bảo tồn dưới những điều kiện có kiểm soát trong la bô cho đến khi đẻ ra cercariae. Các metacercariae được thu thập vào một tấm plastic và rau diếp cá và giữ ở nhiệt độ 4°C trong điều kiện nước tự nhiên trong ít nhất 2 tuần và rồi thêm thức ăn. Chất chuẩn bị Delar (trộn muối với các rau thủy sinh địa phương).
Mentha pulegium và Mentha piperita (tên địa phương gọi là Khlivashvà Bineh) được rửa sạch hoàn toàn đất dính vào 2 loại thủy sinh trên. Bỏ thêm muối vào cây thủy sinh và trộn đều (40% trọng lượng). độ pH được đo bằng máy đo pH bằng điện (CRISON micro pH 2000) là pH = 5.0. Người ta chuẩn bị hỗn hợp Zeitoon-Parvardeh (olive trong nước sốt cây hồ đào). Thu thập và gây nhiễm bằng cách các metacercariae thu nhận thông qua gây nhiễm thực nghiệm được chia thành 3 nhóm; một số được thêm Delar, một số giũ lại trong hỗn dịch Zeitoon-Parvardeh và một số được giữ trong nước như là mẫu chứng. Trong suốt quá trình chuẩn bị thực phẩm bởi các người dân địa phương, các metacercariae được cho thêm vào, trộn đều và giữ ở 4°C cho đến khi gây nhiễm vào động vật. Để phục hồi đầy đủ số lượng metacercaiae, một dung dịch pha loãng thức ăn vào trong nước được đề nghị. Các metacercariae được gây nhiễm bằng đường miệng vào các chuột và chuột hamster.
Khả năng sống của các metacercariae được kiểm tra qua phân tích vi thể. Khả năng sống của metacercariae trong Delar và Zeitoon-Parvardeh được theo dõi hằng tuần theo diễn tiến xuất hiện trong các nang tiết. Các nang chứa metacercariae đã phục hồi từ các thực phẩm được nghiên cứu qua quan sát trên slide. Phương pháp này sử dụng cho hỗn dịch Zeitoon-Parvardeh trong hai tuần kể từ khi chuẩn bị thực phẩm. Thực phảm này được giữ như một thức ăn kích thích ngon miệng với món chính trại các vùng có lưu hành bệnh sán lá gan lớn và có thể ăn ngay và không được để lâu hơn 2 tuần. Đối với Delar, sự kiểm tra bằng chứng sống của metacercariae vẫn tiếp tục cho đến 4 tuần. Mặc dù Delar được ăn ngay sau khi chế biến nhưng nó có thể cất giữ và sử dụng hơn 6 tháng. Món này thường ăn với dưa chuột, mận xanh, nước sốt chua. Khả năng sống của các metacercaria được kiểm tra trên các động vật gây nhiễm. Tất cả động vật được gây nhiễm metacercariae bằng đường uống, sau đó cho các động vật này vào trong chuồng rồi quan sát theo dõi mỗi ngày. Cuối cùng, các động vật được mang đi giết, lấy gan quan sát, cả khoang bụng, mô dưới da, khoang phúc mạc, khoang ngực để xem xét sán trưởng thành thông qua stereomicroscope.
Thực nghiệm thứ nhất trên chuột Swiss
30 con chuột cái Swiss chia thành 2 nhóm giống nhau: (15 con/nhóm). Mỗi chuột được gây nhiễm đường uống với 10 metacercariae. Trong nhóm I, metacercariae sử dụng được giữ trong Delar thời gian 30 ngày và nhóm II (nhóm chứng) thì metacercariae được giữ trong nước ở 4°C cùng thời gian. 10 tuần sau khi gây nhiễm, tất cả chuột trong nhóm thử và nhóm chứng đều bị giết và kiểm tra có sự hiện diện của sán trưởng thành và các thương tổn bệnh học.
Thực nghiệm thứ hai trên chuột Hamsters
Có 21 chuột hamsters vàng được chia thành 3 nhóm (7 con/ nhóm). Mỗi con chuột hamster được gây nhiễm bằng đường miệng với 25 metacercariae. Chuột hamsterstrong nhóm III, IV và V nhận metacercariae giữ trong Delar, Zeitoon-Parvardeh và nước lần lượt trong 7 ngày. 8 tuần sau khi gây nhiễm tất cả chuột hamter trong nhóm thử và nhóm chứng được phân tích nghiên cứu. Test phi thông số được sử dụng để phân tích thống kê (Mac Nemar test).
Kết quả cho thấy khả năng sống của các metacercariae được phân tích vi thể, kết quả cho thấy khả năng sống metacercariae ghi nhận qua kiểm tra về mặt vi thể ở bảng 1. Khoảng 65% số nang sán thu thập được từ Zeitoon-Parvardehvà 58% từ Delar, vẫn còn sống trong thời gian 2 tuần sau khi món ăn được chế biến 2 tuần. Trong thực nghiệm thứ nhất, phần trăm metacercariae còn sống trong Delar, Zeitoon-Parvardeh và nước ở vào ngày thứ 1, 7 và 14 không khác nhau đáng kể nhưng khi số metacercariae còn sống ở trong Delar và nước vào ngày 21 và 28 được so sánh thì có sự khác biệt nhau (p =0.0171 và p = 0.003). Khả năng sống của metacercariae được kiểm tra bằng cho nhiễm động vật.
Trên chuột Swiss:
Những kết quả nhiễm thực nghiệm trên chuột cho thấy trong bảng 2 và 2 trong số 15 chuột trong nhóm I (13.3%) bị nhiễm và 1 con sán được phục hồi ở mỗi nhóm. Hai chuột hình như không nhiễm cho thấy có một vài thay đổi về bệnh học, nhưng không thấy con sán nào phục hồi lại. trong nhóm II, 3 con chuột (20%) bị nhiễm, từ 1 con chuột có 3 con sán nhưng 2 con còn lại có 2 sán. Tất cả con sán này về mặt hình thái học phù hợp với loại F. gigantica và phục hồi từ các bộ phận, cơ quan khác nahu trong cơ thể, được nhìn thấy trong bảng 2. Phần trăm sán được phục hồi (tổng số sán phục hồi/tổng số metacercariae gây nhiễm x 100) trong nhóm I và II lần lượt là 1.33 và 3.33. Một con chuột trong nhóm chứng cho thấy có sự thay đổi về bệnh học trong gan nhưng không vcó con sán nào thu phục được. Số động vật nhiễm và ký sinh trùng phục hồi trong nghiên cứu này (bảng 2) cao hơn so trong nhóm chứng không nhận nang ấu trùng.
Trên chuột Hamsters:
Những kết quả gay nhiễm thực nghiệm trên chuột hamsters cho thấy trong bảng 2. Trên tất cả nhóm, khả năng sống của metacercariae cũng được xác định. Phần trăm tính nhiễm của các động vật trong nhóm III (Delar), IV (Zeitoon-Parvardeh) và V(nước)lần lượt là 28.57%, 71.4%và 57.14%. Phần trăm số sán hồi phục trên các chuột hamter là 2.3%, 3.4% và 4.6% trong cùng các nhóm. Phần trăm số sán phục hồi trong nhóm chứng (nhóm V) là cao hơn cả hai nhóm thử nghiệm (nhóm III và IV). Sự khác biệt này nổi bật hơn giữa nhóm chứng và nhóm Delar. Trong tất cả động vật nhiễm, bằng chứng về tổn thuowng bệnh học từ vừa đến nặng (hầu hết là nặng) trên bề mặt và trong nhu mô gan là bằng chứng. Một chuột trong nhóm chứng và một chuột trong nhóm Delar cho thấy có tổn thương bệnh học nặng, cả hai đều có trên bề mặt và trong nhu mô gan, những không thu hồi được sán.
Một số bàn luận
Bệnh SLGL ở người lưu hành tại nhiều quốc gia trên thế giới-nơi mà con người có thói quen ăn các rau thủy sinh nhiẽm nang ấu trùng giai đoạn gây nhiễm đã đóng kén. Các nghiên cứu tiến hành trên người tại các vùng lưu hành bệnh như Bolivia và Ai Cập chi thấy nhiều người ăn rau sống, rau mọc hoang dại trên các đồng cỏ có liên quan đến sự nhiễm bệnh ở người. Việc tiêu thụ các laọi rau thơm như rau mùi tàu (Eryngium spp) và bạc hà (Mentha spp) hay các loại rau khá phổ biến như các món ăn truyền thống của mỗi dân tộc, làm chất khai vị, ...cũng được đề cập như là nguồn có thể lây nhiễm tại Gilan. Mặc dù, tại Iran, bệnh SLGL lưu hành trên gia súc và vật nuôi khắp quốc gia, song nhiễm ở người chỉ được báo cáo ở các vùng duyên hải vịnh Caspian Sea. Từ năm 1998, có 2 vụ dịch lớn về SLGL ở người xảy ra tại tỉnh Gilan với hơn 15.000 người nhiễm. Tuy nhiên, các ca rải rác cũng đã được báo cáo tại nhiều vùng khác nhau trên đất nước Iran, như phía bắc tỉnh Gilan và Mazandaran.
Mặc dù tỷ lệ nhiễm cao về bệnh sán lá, số nghiên cứu đã phân tích về ảnh hưởng của các lọai thực phẩm khác nhau lên khả năng sống và tính nhiễm của ấu trùng là rất hạn hữu. Tác động của độ pH và muối dường như đã được nghiên cứu trên các lài sán lá mà ấu trùng metacercariae đóng kém trên các vật chủ trung gian thứ 2. Ở loài sán Opisthorchis vàcác dị loài. Haplorchis taichui, khả năng sống của các ấu trùng metacercariae bị ảnh hưởng bởi muối, pH acid hoặc quá trình lên men trong thời gian 3-24 giờ. Clonorchis sinensis là loài duy nhất mà khả năng sống của metacercaria dường như không bị ảnh hưởng , ít nhất là trên dung dịch nòng độ muối 30% trong thời gian 5-7 ngày. Nghiên cứu này có lẽ là nghiên cứu đầu tiên liên quan đến ván đề ảnh hưởng của các chế biến và bảo quản thức ăn truyền thống đối với áu trùng sán metacercariae. Quan sát vi thể cho thấy thực phẩm chế biến thì ấu trùng có thể sống đên 2 tuần trên cả Zeitoon - Parvardeh và Delar có lẽ không ảnh hưởng hay chỉ giảm nhẹ. Khoảng ½ số ấu trùng vẫn còn sống, sau 3-4 tuần chế biến Delar, cho thấy nguy cơ và tiềm lực nhiễm rất cao (high infection potential). Gây nhiễm trên động vật thực nghiệm chứng minh các ấu trùng metacercariae có thể vẫn duy trì tính nhiễm trên cả 2 loại thực truyền thống địa phương này.
Các thử nghiệm trên chuột chỉ ra số động vật nhiễm và số sán trưởng thành phục hồi cao hơn ở nhóm chứng (metacercariae lưu giữ trong nước) hơn là trên nhóm Delar, cho thấy rằng nồng độ muối cao sử dụng trong thực phẩm Delar có thể làm thay đổi tính nhiễm của metacercariae. So sánh nghiên cứu trên chuột Swiss và chuột Hamsters, một tỷ lệ nhiễm thấp hơn và vị trí lạc chỗ cao hơn của sán trên chuột chỉ ra rằng các động vật này không phù hợp là vật chủ của loài F. gigantica. Điều này cũng phù hợp với các báo cáo trước đây. Mặt khác, vì chuột Hamster được xem là vật chủ thích hợp cho F. gigantica, do vậy, kết quả ghi nhận đươc từ các nghiên cứu trên động vật này giúp làm sáng tỏ hơn. Số chuột hamster bị nhiễm bởi metacercariae giữ trong môi trường hỗn dịch Zeitoon-Parvardeh là cao hơn nhiễm trong thực phẩm Delar, metacercariae được giữ trong hỗn dịch Zeitoon-Parvardeh và Delar là thuận lợi hoặc bất lợi cho sán hơn là trong môi trường nước. Điều này chỉ ra, những thành phàn trong thực phẩm này có tác động bất lợi nhất định lên tính nhiễm của metacercariae. Ngoài ra, Delar dường như gây bất lợi hơn vì nồng độ muối cao hơn.
Các thử nghiệm này cho thấy cả 2 loại thực phẩm, tính nhiễm của metacercariae bị giảm đi khi so sánh với nhóm chứng, nhưng bản thân metacercariae vẫn còn duy trì tính nhiễm. Điều này rõ ràng là khả năng sống và tính nhiễm ở cả hai loại thực phẩm đều giảm theo thời gian. Vấn đề này cũng phản ánh lên tuổi của metacercariae, điều này đã được phản ánh trước đây là tác động bất lợi cả về mặt sống còn và cả về mặt tính nhiễm của các nang. Nghiên cứu chỉ ra hầu hết các metacercariae còn duy trì tính nhiễm và khả năng sống còn thậm chí sau vài tuần chế biến thực phẩm đó và các phương thức chế biến thức ăn truyền thống của món Zeitoon-parvardeh và Delar(muối = 40%; pH = 5) ít có tác dụng. Tuy nhiên, nếu có trên tính nhiễm và khả năng sống của metacercariae, thì nồng độ muối trong Delar cao có thể gây bất lợi cho sán. Do vậy, họ đã cảnh báo rằng các món ăn chế biến như Zeitoon-parvardeh và Delar đều có nguy hiểm tiềm tàng nhiễm sán và thành bệnh khi ăn với dạng trộn rau xanh bằng các hỗn dịch trên.
Tài liệu tham khảo
1.Mas-ComaS,EstebanJG,BarguesMD (1999). Epidemiology of human fascioliasis: a review and proposed new classification. Bull WHO, 77 (4): 340-46.
2.Mas-ComaS,BarguesMD,ValeroMA (2005).Fascioliasisandotherplant- borne trematode zoonoses. Int J Parasitol, 35: 1255-78.
3.Massoud J (1989). Fascioliasis outbreak in man and drug test (Triclabendazole) in Caspian Sea Littoral, Northern part of Iran. Bull Soc Fran Parasitol.8:438-39.
4.World Health Organization (1995). Control offood-borne trematodeinfections. WHOTechnicalReportSeries.WHO Geneva, No. 849, pp.: 1-157.
5.Forghan-Parast K, Ashrafi K (2001). Comparison of the formalin-Ether and Kato-Katz in the parasitological diagnosis of humanfascioliasis.JMedFac. Gilan Uni. Med Sci Iran, 9(35-36): 1-6.
6.Ashrafi K (2004). A survey on human and animalfascioliasisandgenotypicand phenotypic characteristics of fasciolids andtheirrelationshipwithlymnaeid snails in Gilan province, northern Iran [Ph.D thesis]. School of Public Health, Tehran University of Medical Sciences, Iran.
7.Forghan-Parast K, Yadegari D, Assmar M (1994). Study of clinical epidemiology offascioliasisinGuilan.JMedFac Gilan Univ Med Sci Iran, 2 (6&7): 4-11.
8.AssmarM,MilaniniaA,Amir-KhaniA, Yadegari D, Forghan-Parast K, Nahravanian H, Piazak N, et al. (1991). Seroepidemiologicalinvestigationoffascioliasis in northern Iran. Med J Islamic R Iran, 5: 23-7.
9.Moghaddam AS, Massoud J, Mahmoodi M, Khoubbane M, Artigas P, Periago MV, Fuentes MV, Bargues MD, Mas-Coma S (2004). Distributional outline of lymnaeid snails (Gastropoda) in the fascioliasis endemic area of Mazandaran, Iran. Acta Parasitol, 49 (2): 145-52.
10.Boray JC, Happich FA, Andrews JC (1969).The epidemiology of fascioliasis in two representative endemic regions of Australia. Aust Vet J, 45: 549-53.
11.Valero MA, Mas-Coma S (2000). ComparativeinfectivityofFasciolahepatica metacercaria from isolates of the main andsecondaryreservoiranimalhost species in the Bolivian Altiplano high human endemic region. Folia Parasitol, 47: 17-22.
12.Mas-Coma S, Angles R, Strauss W, Esteban JG, Oviedo JA, Buchon P (1995). HumanfasciolasisinBolivia:ageneral analysis and a critical review of existing data. Res Rev Parasitol, 55 (2): 73-93.
13.ELSayedMH,AllamAF,OsmanMM (1997).Preventionofhumanfascioliasis: a study on the role of acids detergentsandpotassiumpermanganatein clearingsaladsfrommetacercaria.J Egyptian Soc Parasitol, 27(1): 163-69.
14.Motawea SM, EL Gilany A, Massoud A, RizkH,ELShazlyAM,GaballahM (2001). An epidemiological study of fascioliasis in a rural area in Dakahlia Governorate. J Environ Sci, 21(5):31- 62.
15.Sahba GH, Arfaa F, Farahmandian I, Jalai H(1972).Animalfasciolasisin Khuzestan, SouthWestwernIran.J. Parasitol, 58: 712-16.
16.Mohsenin H, Ebrahimian MA (1969). Human fascioliasis in Iran: report of a case with Fasciola hepatica in biliary duct. BullSoc PatholExot,62: 36.
17.KhorsandiI (1977).Obstructivejaundice due to Fasciola hepatica. Report of two cases. Bull Soc Pathol Exot 70: 626-28.
18.Moghaddam AS, Massoud J, Mahmoodi M, Mahvi AH, Periago MV, Artigas P, et al. (2004). Humanandanimalfascioliasis in Mazandaran province, northern Iran. Parasitol Res, 94 (1): 61-9.
19.Kruatrachue M, Chitramvong YP, Upatham ES, Vichasri S, Viyanant V (1982). Effects of physico-chemical factors on the infection of hamsters by metacercaria of Opisthorchis viverini. Southeast Asian J Trop Med Publ Health, 13 (4): 614-17.
20.SukontasonK,MethanitikornR,Sukontason K,PiangjaiS,ChoochoteW (1998).Viabilityofmetacercariain northern Thai traditional foods. Southeast Asian J Trop Med Publ Health, 29(4): 714-16.
21.Wiwanitkit V, Nithiuthai S, Suwansaksri J, ChongboonprasertC,Tangwattakanont K (2001). Survival of heterophyd metacercaria in uncooked Thai fish dishes. Ann Trop Med Parasitol, 95: 725-27.
22.Fan PC (1998). Viability of metacercaria of Clonorchis in frozen or salted freshwater fish. Int J Parasitol. 28(4): 603-5.
23.Mas-Coma S, Bargues MD (1997). Human liver flukes: a review. Res Rev Parasitol, 57(3-4): 145-18.