Hai biện pháp loại trừ bệnh sốt rét vào năm 2015; Phối hợp thuốc & an toàn cho điều trị sốt rét lúc có thai; Đột phá trong việc phòng ngừa bệnh sốt rét khi có thai; Điều biến thành công loại muỗi chống sốt rét; Thuốc mới chữa được HIV và sốt rét; Thuốc sốt rét được viện trợ cho 13 nước đã bị đánh cắp; Bằng chứng và các điều chưa biết về cơ chế xâm nhập vào hồng cầu người của KSTSR; Liệu sốt rét có bị xóa sổ hay không?
Hai biện pháp loại trừ bệnh sốt rét vào năm 2015Trong thông điệp nhân Ngày Thế giới chống sốt rét (25/4), Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đã kêu gọi thế giới nỗ lực gấp bội qua hai biện pháp để đạt mục tiêu loại trừ bệnh sốt rét vào năm 2015. Hai biện pháp đó là mở rộng các biện pháp can thiệp chi phí thấp và hiệu quả cao trong ngăn ngừa và điều trị bệnh sốt rét, đồng thời xét nghiệm kịp thời đối với tất cả những trường hợp nghi ngờ mắc bệnh, điều trị tích cực đối với những người được khẳng định đã mang bệnh.
Ông Ban Ki-moon cảnh báo hiểm họa vi trùng kháng các loại thuốc chống sốt rét hiệu quả nhất hiện nay là thách thức nghiêm trọng cần nỗ lực toàn cầu để vượt qua. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề nghị thay đổi liệu pháp điều trị sốt rét do loại vi trùng sốt rét nguy hiểm nhất là P. falciparum gây ra đối với trẻ em, theo đó ưu tiên truyền artesunate vào tĩnh mạch thay cho sử dụng thuốc ký ninh vì ký ninh khó quản lý và có thể gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm.
Chủ đề của Ngày Thế giới chống sốt rét 2011 là Thúc đẩy tiến bộ và tác động để đổi mới các nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm đạt mục tiêu không có người chết vì sốt rét vào năm 2015. Đây là cơ hội để cộng đồng y tế và phát triển thế giới mở rộng quyền tiếp cận các liệu pháp điều trị phối hợp chống sốt rét hiệu quả, an toàn trên toàn cầu. Các nhà khoa học kêu gọi các nước tăng cường bảo vệ các loại cây có thể sử dụng để chế tạo thuốc chống sốt rét.
Trong số hơn 1.000 loài cây ở châu Phi được xác định có khả năng ngăn ngừa hoặc điều trị các triệu chứng sốt rét, các nhà khoa học đã nghiên cứu và đánh giá dược tính của 22 loại cây có thể dùng để bào chế thuốc điều trị sốt rét hiệu quả. Theo số liệu của WHO, khoảng 50% dân số thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét, đặc biệt là dân ở các nước đang phát triển. Sốt rét hiện đang tác động đến hơn 3 tỷ người trên toàn cầu. Hơn 500 triệu người bị lây nhiễm vi trùng sốt rét và số người chết vì căn bệnh này lên tới 1 triệu người mỗi năm. Sốt rét trở thành gánh nặng kinh tế đặc biệt nặng nề đối với các nước ở khu vực cận sa mạc Sahara của châu Phi.
Hiệu lực thuốc Artesunat đối với bệnh sán lá gan lớn so với Triclabendazole
Nhóm tác giả Trần Tịnh Hiền, Nguyễn Thanh Trường, Nguyễn Hoàng Minh, Hoàng Đình Đạt,Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Thị Huệ, Trần Kim Dung, Phùng Quốc Tuấn, James.I Campbell, Jeremy J.Farrar Và Jeremy N.Day đang công tác tại BV Bệnh Nhiệt Đới TP.HCM, BV Đa khoa tỉnh Bình Định, Đơn vị Nghiên cứu lâm sàng ĐH Oxford cùng tiến hành nghiên cứu này.
Bệnh sán lá gan do Fasciola hepatica hoặc Fasciola gigantica là một bệnh quan trọng ở người và súc vật. Tỉ lệ bệnh trên người đang gia tăng, với tổng số trường hợp nhiễm bệnh ước tính khoảng từ 2,5 đến 17 triệu người và có các báo cáo cho thấy sự gia tăng số trường hợp nhiễm bệnh ở ít nhất là 51 nước, với ý nghĩa quan trọng về mặt y tế công cộng và kinh tế. Các biện pháp điều trị và phòng chống hữu hiệu gặp trở ngại vì sự hiểu biết còn hạn chế về các kiểu hình của bệnh trên người và vì có ít thuốc điều trị có hiệu quả. Thuốc điều trị chọn lọc hiện nay đối với bệnh sán lá gan ở người là triclabendazole. Triclabendazole xem ra được dung nạp tốt nhưng đắt tiền, chế phẩm dùng cho người không khá dụng rộng rãi và các trường hợp kháng thuốc trên động vật đã được mô tả. Các thuốc khác được sử dụng trước kia gồm có bithionol và nitazoxanide, không có các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên nào được công bố với thuốc thứ nhất, còn thuốc thứ hai thì tỉ lệ hiệu quả khoảng 36% ở người lớn (tính trên quần thể có ý định điều trị).
Các định nghĩa về trường hợp bệnh nhiễm sán lá gan được sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng đã công bố thường dựa vào việc tìm thấy trứng Fasciola trong phân, vì đây là một tiêu chí để đo lường và có tính đặc hiệu cao. Tuy vậy, định nghĩa này ước lượng non gánh nặng bệnh vì sự thải trứng là một tiến trình xảy ra từng đợt và những bệnh nhân có triệu chứng lẫn không có triệu chứng - bị nhiễm sán lá cấp hoặc mạn tính – có thể có kết quả thử phân âm tính. Những BN có biến chứng quan trọng sẽ bị loại ra theo định nghĩa này. Điều đó có ý nghĩa ở chỗ những thuốc điều trị được khuyên dùng có thể có ít nhiều hiệu quả chống sán lá ở những độ tuổi phát triển khác nhau, lại được đánh giá theo sự hiện diện của trứng sán trong phân.
Bệnh sán lá gan là một vấn đề sức khỏe quan trọng ở miền trung Việt Nam, với tỉ lệ huyết thanh dương tính ở một số vùng là 8% (T.T.Hiền, số liệu chưa công bố). Gần đây, có bằng chứng cho thấy hiệu quả của thuốc sốt rét artesunat trong điều trị các bệnh sán khác, đặc biệt là Schistosoma mansoni và Schistosoma japonicum. Cơ chế tác động không rõ, nhưng các thí nghiệm trên động vật cho thấy sự tổn hại trên lớp bì của sán. Artesunat rẻ tiền và số liệu từ các nghiên cứu sốt rét nặng đã chứng minh thuốc có tính an toàn tốt. Các bác sĩ Việt Nam có nhiều kinh nghiệm sử dụng artesunat trong điều trị sốt rét, những nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên đầu tiên với các dẫn chất của artemisinin trong sốt rét đều được thực hiện tại Việt Nam. Hướng dẫn của Viện Sốt rét Trung ương hiện nay khuyên dùng artesunate làm thuốc điều trị hàng đầu và khi sử dụng phối hợp, thuốc này nay là cơ sở của chiến lược thuốc chống sốt rét toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới. Mới đây đã có số liệu in vitro và in vivo chứng minh tác dụng chống Fasciola spp của artemether và artesunate. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu thí điểm, ngẫu nhiên, có đối chứng để so sánh artesunate với triclabendazole trong điều trị bệnh sán lá gan Fasciolae spp có triệu chứng trên người tại Việt Nam. Bệnh nhân đến khám với triệu chứng đau bụng, sốt và được siêu âm bụng cho thấy tổn thương nhu mô gan phù hợp với bệnh nhiễm sán lá cấp. Như vậy, kết điểm chính được chọn là hết đau bụng, vì đây là triệu chứng nổi bật nhất ở bệnh nhân sán lá gan lớn trong thực tiễn lâm sàng của chúng tôi. “Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn”, nghĩa là hết hẳn tất cả triệu chứng, số lượng bạch cầu ái toan trở lại, bình thường và cải thiện hình ảnh siêu âm, là những kết điểm phụ. Sự hiện diện của trứng Fasciola trong phân không phải là yếu tố trong định nghĩa trường hợp bệnh.
Thiết kế nghiên cứu là một nghiên cứu thí điểm, ngẫu nhiên, tiền cứu, công khai tên thuốc, so sánh triclabendazole và artesunat dạng uống dùng điều trị bệnh sán lá trên người.
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân hợp lệ để nhận vào nghiên cứu là người trên 8 tuổi và hội đủ các yếu tố của định nghĩa trường hợp bệnh sán lá gan. Bệnh nhân được điều trị nội trú 10 ngày trong bệnh viện và được dùng thuốc dưới sự giám sát trực tiếp. Bệnh nhân tự đến hoặc được các bác sĩ gửi đến là người sống ở Qui Nhơn, một vùng có bệnh sán lá gan lưu hành. Việc thu nhận bệnh nhân được thực hiện từ tháng 2/2004 đến tháng 12/2005. Nghiên cứu được sự chấp thuận của Hội đồng Y đức BV Bệnh Nhiệt Đới TP.Hồ Chí Minh. Tất cả bệnh nhân đều có sự thỏa thuận miệng (có người chứng), hoặc giấy cam kết trước khi bước vào nghiên cứu.
Kết quả cho thấy bệnh sán lá gan ở người do Fasciola hepatica hoặc Fasciola gigantica là một vấn đề sức khỏe đang gia tăng trên toàn cầu. Thuốc điều trị chủ lực hiện dùng là triclabendazole, nhưng tình trạng kháng thuốc trên súc vật đã được báo cáo và nhiều nước không có thuốc này. Thuốc sốt rét artesunat có đặc tính an toàn rất tốt và ngày càng có nhiều bằng chứng về hiệu quả in vitro lẫn in vivo chống các ký sinh trùng khác của thuốc này. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu thăm dò sự hữu dụng của artesunat trong bệnh sán lá gan do Fasciolae spp. có triệu chứng ở người trên 100 bệnh nhân. Bệnh nhân được điều trị artesunat có nhiều khả năng hết đau bụng khi ra viện hơn (50/50 so với 44/50, P = 0.027, nguy cơ tương đối (RR) 1,14, khoảng tin cậy (KTC) 95%: 1,03 – 1,26), nhưng tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn sau 3 tháng thấp hơn so với BN được điều trị triclabendazole (38/50 so với 48/50, P = 0.05, RR = 0,83, KTC 95%: 0,69 – 0,98, artesunat so với triclabendazole). Artesunat có thể có vai trò điều trị trong bệnh sán lá gan do Fasciola.
Phối hợp thuốc & an toàn cho điều trị sốt rét lúc có thai
Phối hợp artemether với lumefantrine được dung nạp tốt và an toàn khi điều trị sốt rét thường do Plasmodium falciparum cho thai phụ; tuy nhiên theo một nghiên cứu tại Thái Lan
Phác đồ phối hợp artemisinin (ACT) được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo sử dụng tại những vùng mà Plasmodium falciparum có mức độ đa kháng cao, TS. Rose McGready và cộng sự đã ghi nhận như trên trong số báo tháng 12 của PLoS Medicine. Liều cố định artemether-lumefantrine là phối hợp ACT được sử dụng rộng rãi nhất, nhưng tính an toàn và hiệu quả của phối hợp này trong thai kỳ thì chưa được rõ.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành một thử nghiệm tại Đơn vị Nghiên cứu Sốt rét Shoklo ở Mea Sot trên những phụ nữ ở tam cá nguyệt 2 và 3 của thai kỳ, mắc bệnh sốt rét cấp tính do Plasmodium falciparum. Các thai phụ này được phân bổ ngẫu nhiên vào phác đồ điều trị có theo dõi là hoặc 3 ngày artemether-lumefantrine (n = 125) hoặc 7 ngày artesunate (n = 128). Phác đồ phối hợp gồm 4 viên artemether 20 mg + lumefantrine 120 mg ngày 2 lần, trong lúc liều artesunate là 2 mg/kg ngày một lần. Các tác giả báo cáo là cả hai phác đồ được “dung nạp rất tốt mà không có tác dụng phụ cho người mẹ hay thai nhi”.
Tuy nhiên tỷ lệ điều trị khỏi bệnh thì thấp hơn là trong nhóm người lớn không có thai – 89,2% trong nhóm artesunate và 82,0% trong nhóm artemether-lumefantrine – mà theo các tác giả thì điều này “không thích hợp cho việc triển khai rộng rãi phác đồ điều trị trong vùng này”. Các tác giả cho rằng hiệu quả điều trị giảm là do các đặc điểm dược động học bị thay đổi vào cuối thai kỳ.
Nhóm của TS McGready nhấn mạnh là “Tỷ lệ điều trị khỏi bệnh thích hợp khi mắc Plasmodium falciparum lúc có thai chỉ đạt được khi nào mà liều lượng thuốc được tối ưu hóa cho thai phụ”. Các tác giả đề nghị một phác đồ artemether-lumefantrine dài ngày hơn hay uống nhiều lần hơn. hoặc có thể phải cần đến một phác đồ phối hợp thay thế khác.
Đột phá trong việc phòng ngừa bệnh sốt rét khi có thai
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Copenhagen là những người đầu tiên trên thế giới tổng hợp được loại protein toàn phần được cho là có vai trò làm cho bệnh sốt rét nguy hiểm đến tính mạng. Protein này có tên là VAR2CSA, giúp ký sinh trùng sốt rét tập trung tại nhau thai và do đó có thể được sử dụng như là thành phần chính trong vắc xin để kích hoạt các kháng thể bảo vệ phụ nữ đang mang thai chống lại bệnh sốt rét.
Nhóm nghiên cứu đang lập kế hoạch thử nghiệm hiệu quả của vaccine dựa vào protein này trên người. Hy vọng là trong 10 năm, tất cả các cô gái châu Phi có thể sẽ được tiêm ngừa chống lại bệnh sốt rét khi có thai, từ đó có thể ngăn ngừa được hơn 200.000 ca tử vong mỗi năm. Mỗi năm, có 25 triệu phụ nữ mang thai ở vùng hạ Sahara châu Phi có nguy cơ mắc sốt rét. Những phụ nữ bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét trong giai đoạn đầu của thai kỳ có nguy cơ mắc bệnh thiếu máu nặng và làm suy giảm đáng kể sự tăng trưởng của thai nhi. Các ký sinh trùng sốt rét tập trung tại nhau thai làm thai nhi bị sinh non và thiếu cân. Những phụ nữ này cũng có nguy cơ tử vong cao hơn khi mang thai và sinh con. Mắc sốt rét khi có thai là nguyên nhân gây tử vong của từ 100.000 đến 200.000 trẻ sơ sinh và 10.000 phụ nữ mỗi năm.
Năm 2003, các nhà khoa học đã phát hiện ra protein VAR2CSA là yếu tố làm ký sinh trùng sốt rét gắn vào nhau thai. Các nhà khoa học hy vọng sẽ sản xuất được một vắc xin dựa trên protein VAR2CSA nhằm tạo ra các kháng thể ngăn ký sinh trùng gắn vào nhau thai. Thách thức đối với các nhà khoa học là phải tạo được protein toàn phần này trong phòng thí nghiệm, vì nó có kích thước lớn và do đó kỹ thuật phức tạp. Hiện nay điều này đã được thực hiện, các nhà khoa học đã có một bước tiến quan trọng tới gần hơn việc phát triển vaccine cho người, vì đã có thể thử nghiệm vắc xin này trên động vật.
Với sự cộng tác của các nhà khoa học Viện Nghiên Cứu Y học Quốc gia Tanzania, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm các kháng thể được sản xuất trong phòng thí nghiệm trên một số ký sinh trùng sốt rét lấy từ phụ nữ mang thai tại Tanzania. Các kháng thể có vẻ có hiệu quả trong việc ngăn chặn các ký sinh trùng tập trung trong các mô của nhau thai. Bước tiếp theo là nghiên cứu xem có thể tạo ra kháng thể tương tự để bảo vệ chống lại bệnh sau tiêm phòng cho người hay không, khi đó mới thực sự là có vaccine.
Loại thuốc mới này được Tổ chức Medicines for Malaria Venture (MMV) (một tổ chức phi lợi nhuận được tài trợ bởi Bộ Phát triển quốc tế của Vương quốc Anh) phối hợp với Công ty Dược phẩm Novatis nghiên cứu sản xuất. Bộ trưởng Bộ Phát triển quốc tế Vương quốc Anh Ivan Lewis công bố sẽ tăng thêm 19 triệu bảng Anh tiền tài trợ từ năm 2010 cho tổ chức MMV để họ tiếp tục các nghiên cứu chống lại bệnh sốt rét. Gọi là “thân thiện” với trẻ em bởi vì khi cho trẻ uống các loại thuốc sốt rét, trẻ em thường hay nhả ra do thuốc sốt rét thường có vị đắng, do đó thuốc mới Coartem Dispersible, với hương vị quả anh đào dễ dàng tan trong nước hoặc sữa. Giá thành trung bình của liều thuốc khoảng 30 cent (khoảng 5.000 đồng). Hiện nay, có ít nhất 50 triệu ca bệnh sốt rét mỗi năm trên toàn thế giới và ít nhất 1 triệu ca tử vong, chủ yếu là trẻ em, đoạn phim mà MMV giới thiệu tại http://www.youtube.com/ nói về một bà mẹ có bốn con sống tại miền tây Kenya, kể lại câu chuyện của cô con gái hai tuổi đối mặt với cái chết khi bị bệnh sốt rét và kết quả tích cực do thuốc Coartem Dispersible mang lại.
Điều biến thành công loại muỗi chống sốt rét
Sốt rét là một căn bệnh gây sốt cao và có thể gây tử vong cho người bệnh vì mức độ sốt cao lên tới đỉnh điểm khó kiểm soát. Việc trị liệu sốt rét hiện nay là dùng thuốc diệt giao bào ký sinh trùng sốt rét trong máu. Nhưng mới đây, người ta đã tìm ra được một phương pháp khác với cách truyền thống này, đó là gây biến đổi gen. Một nhóm các nhà khoa học tại Trường Hoàng gia London (Anh) phối hợp với Đại học Washington (Mỹ) đang nghiên cứu một gen có tên là I-SceI. Gen này có thể tồn tại trong muỗi và làm đứt gãy DNA của ký sinh trùng, có tác dụng tiêu diệt hay làm suy giảm sự sinh trưởng của ký sinh trùng sốt rét.
Điều hay là ở chỗ, những gen này lại được tồn tại trong chính những loại muỗi mang mầm bệnh và giờ đây, chúng được gọi là muỗi kháng sốt rét. Hiện nay, các nhà khoa học đang theo dõi sự tồn tại của gen trong các thế hệ muỗi con cháu và quan sát hoạt động của chúng. Họ thấy gen đã phát huy hiệu quả trong 12 thế hệ. Các nhà khoa học tin rằng, họ đang tiến đến rất gần công nghệ làm biến đổi gen muỗi để tuyên chiến với sốt rét trong tương lai.
Thuốc mới chữa được HIV và sốt rét
Căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và sốt rét có chung một số điểm tương đồng về mặt phân tử. Vì thế, có thể sắp xuất hiện loại “siêu thuốc” chữa được cả hai bệnh này. Đó là thuốc có thể ức chế phân giải, dược phẩm mà các nhà khoa học tạo ra để tiêu diệt HIV bằng cách ngăn chặn quá trình tạo protein từ virus này. “Các chất ức chế phân giải đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng và hiện là loại thuốc trị HIV triển vọng nhất”, Photini Sinnis, giám đốc Phòng thí nghiệm ký sinh trùng, thuộc Trung tâm y học NYU Langone (Mỹ) cho biết. “Những chất này thay đổi hoàn toàn cách điều trị HIV trong những năm gần đây. Những người uống loại thuốc này không mất mạng vì AIDS nữa”.
Chất ức chế phân giải là các enzyme có thể cắt các protein thành các hình thù sao cho chúng hoạt động tích cực. Chất ức chế phân giải HIV ngăn chặn virus HIV trên đường đi của chúng bằng cách ngăn chặn một trong những enzyme phân giải của nó thực hiện chức năng của mình. Khi không có protein phân giải, các protein của HIV không được phân chia và kích hoạt, khiến các phần tử của virus HIV không thể tập hợp lại để tạo thành các phần tử mới. Cơ chế tự nhiên của cơ thể là tiêu diệt các phần tử HIV để ngăn chặn virus tái tạo nhằm giữ số lượng tế bào HIV ở mức cơ thể có thể xử lý được.
Trong nhiều năm qua, nhiều nhóm nghiên cứu phát hiện ra tác dụng phụ tích cực của chất ức chế phân giải HIV. “Chúng tôi thấy rằng những enzyme này có cả tính chất chống sốt rét”, Sinnis nói.
Các nhà nghiên cứu tin các chất ức chế phân giải HIV cũng có thể chấm dứt sự hiện diện của protein phân giải trong ký sinh trùng sốt rét, giống như cơ chế ức chế HIV. Nhóm nghiên cứu của Sinnis thấy thuốc chống virus HIV ngăn chặn thành công ký sinh trùng sốt rét tái tạo ở chuột. Thử nghiệm này chưa được tiến hành ở người, nhưng kết quả thử nghiệm ban đầu ở chuột thúc đẩy các nhà nghiên cứu sử dụng các chất ức chế phân giải trong điều trị HIV cho các bệnh nhân ở châu Phi. “Ở châu Phi, nơi HIV và sốt rét chồng chéo lên nhau, thuốc HIV chúng tôi sử dụng phải là các chất ức chế phân giải, rồi mới có thêm tác dụng ngăn chặn lây lan sốt rét”, Sinnis nói.
Hiện tại, các chất ức chế phân giải mới được dùng để chữa bệnh sốt rét cho người mang HIV. Thuốc này độc hơn nhiều loại thuốc chữa sốt rét, nên không được phát cho những người chỉ bị sốt rét. Nhưng nếu các chất ức chế phân giải có thể được điều chỉnh để giảm độc tính thì sẽ được dùng cho bệnh nhân sốt rét.
Đến nay, các nhà khoa học đã giới hạn loại enzyme phân giải có thể chứa chất phân giải mục tiêu, nhưng họ vẫn chưa tìm ra loại enzyme cụ thể. Vì vòng đời và chuỗi gene phức tạp của ký sinh trùng sốt rét, nên “rất khó để thể hiện các protein của ký sinh trùng sốt rét (trong đó có enzyme phân giải) trong phòng thí nghiệm. Điều đó khiến quá trình thử nghiệm các chất ức chế enzyme phân giải của ký sinh trùng sốt rét tiến triển chậm”, Sinnis giải thích.
Trong bài đăng trên tạp chí của Hội sinh học thử nghiệm Mỹ, Colin Berry và đồng nghiệp ở ĐH Cardiff (Anh) cho biết họ đã tìm ra enzyme phân giải ẩn trong chất ức chế phân giải HIV ở ký sinh trùng Leishmania - họ hàng của ký sinh trùng sốt rét. Dù chất phân giải Dd1 này chưa được phát hiện ở ký sinh trùng sốt rét, nhóm của Berry tin rằng đây là chất phân giải mà các nhà khoa học bấy lâu nay muốn tìm thấy. “Kết quả của chúng tôi cho thấy các protein Dd1 là mục tiêu của chất ức chế phân giải HIV, và chỉ ra rằng Leishmania Ddi1 rất có thể là mục tiêu của những loại thuốc này và là mục tiêu tiềm năng của liệu pháp kháng ký sinh trùng”, Berry và cộng sự cho biết.
“Bài báo này mở ra hy vọng tìm thấy mục tiêu ở ký sinh trùng sốt rét”, Sinnis nhận xét. Và khi nó được tìm ra, thuốc chống HIV có thể được dùng để chống lại căn bệnh sốt rét. HIV, loại virus gây ra căn bệnh thế kỷ AIDS, cướp đi sinh mạng của 2 triệu người trên thế giới mỗi năm. Sốt rét, ký sinh trùng lây lan qua muỗi, lây bệnh cho 225 triệu người và giết chết 781.000 người mỗi năm.
|
Thuốc sốt rét được viện trợ cho nhiều nước ở châu Phi để phát miễn phí cho người nghèo. (Nguồn: BCNN5) |
Thuốc sốt rét được viện trợ cho 13 nước đã bị đánh cắp
Lượng thuốc sốt rét trị giá hàng triệu USD được viện trợ cho 13 nước, phần lớn ở châu Phi, bị ăn trộm và tuồn ra ngoài chợ đen. Các quan chức Quỹ toàn cầu chống AIDS (Global Fund), viêm phổi và sốt rét, vừa cho biết, lượng thuốc sốt rét trị giá hàng triệu USD được viện trợ cho 13 nước, phần lớn ở châu Phi, bị ăn trộm và tuồn ra ngoài chợ đen.
Jon Liden, phát ngôn viên của quỹ, xác nhận rằng tổ chức này nghi ngờ số thuốc sốt rét bị lấy cắp phần lớn trong giai đoạn 2009 - 2011.
Hiện, việc điều tra đang được tiến hành để xác nhận lượng thuốc bị mất ở những nơi khác. “Chúng tôi coi đây là việc nghiêm trọng và sẽ có cách để bảo vệ sự đầu tư của mình”, ông Jon Liden cho biết. Trên một bài báo của AP hồi tháng 1 cho thấy nhiều vấn đề liên quan tới tiền ở một số chương trình tài trợ của Global Fund, khiến danh tiếng của quỹ trị giá nhiều tỷ USD này bị ảnh hưởng xấu. Nhưng những thông tin trên được Quỹ này đưa ra ánh sáng nhờ hoạt động tự giám sát và tính minh bạch khá tốt của Quỹ so với các tổ chức viện trợ khác. Sau khi phát hiện ra tình trạng thuốc bị trộm cắp, Global Fund đã đình chỉ cấp thuốc để dự trữ trong kho của chính phủ Swaziland và Malawi.Tương tự, tình trạng mất thuốc cũng được xác nhận ở Togo, Tanzania, Sierra Leone, Swaziland và Lào. Số tiền bị mất cụ thể ở 9 nước, trong đó có Nigeria và Kenya – nơi Global fund thực hiện nhiều chương trình lớn không được tiết lộ.
Năm 2010, Tổng thanh tra của Global Fund cho biết họ đang điều tra cáo buộc “ăn cắp thuốc sốt rét có tổ chức” ở các nước châu Phi, sau khi phát hiện ra thuốc viện trợ được bán trong các cửa hàng thuốc, thay vì đến tay người nhận miễn phí.
Một tài liệu mật mà AP vừa có được, cho thấy trong 70% các vụ, thuốc sốt rét bị nhân viên an ninh, người quản lý kho và bác sĩ đánh cắp từ các kho dự trữ của chính phủ. Điều này cho thấy hoạt động đánh cắp thuốc được tổ chức rất chặt chẽ và được lên kế hoạch tỉ mỉ bởi những kẻ trong cuộc với các tài liệu làm giả”, báo cáo nói. Tài liệu cũng cho biết rằng thuốc bị đánh cắp được mang sang nước khác để bán. Được biết, sốt rét tấn công hơn 250 triệu người mỗi năm, cướp đi mạng sống của khoảng 1 triệu người, phần lớn là trẻ em ở châu Phi. Vì nhu cầu thuốc sốt rét rất lớn, người dân hay mua thuốc ở hiệu thuốc và cửa hàng tư nhân, nên loại thuốc này dễ bán hơn những loại thuốc khác như thuốc dành cho người bị AIDS vì thuốc này phần lớn được phát tại bệnh viện, phòng khám.
Bằng chứng và các điều chưa biết về cơ chế xâm nhập vào hồng cầu người của KSTSR
Nhóm tác giả David T. Riglar, Dave Richard, Danny W. Wilson, Michelle J. Boyle, Chaitali Dekiwadia, Lynne Turnbull, Fiona Angrisano, Danushka S. Marapana, Kelly L. Rogers, Cynthia B. Whitchurch, James G. Beeson, Alan F. Cowman, Stuart A. Ralph, Jake Baum đang công tác tại các đơn vị nghiên cứu Walter và Eliza Hall, Melbourne, Victoria 3052, Úc; khoa sinh học y học của ĐH Melbourne, Victoria 3052, Australia, Viện khoa học kỹ thuật, Sydney, New South Wales đồng tiến hành nghiên cứu cho biết:
+Các tín hiệu dính kết với merozoite cùng xâm nhập và gây nhiều trở ngại sau đó;
+PfAMA1 và PfRON4 xác định các thành phần cốt lõi của cầu nối chặt chẽ giữa merozoite-erythrocyte;
+Một vòng của thể hoạt động actin tại vị trí gắn chặt thông qua cơ chế xâm nhập của merozoite;
Sự xâm nhập vào hồng cầu của các merozoite là một giai đoạn bắt buộc của quá trình nhiễm bệnh do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium và cần thiết cho tiến trình phát triển của bệnh sốt rét. Nỗ lực đi sâu vào nghiên cứu này đã cho thấy quá trình xâm nhập đồng bộ của các merozoites trong môi trường nuôi cấy in vitro của ký sinh trùng sốt rét ở người loài Plasmodium falciparum. Sử dụng soi huỳnh quang, soi ảnh ba chiều đối với các merozoites lọc ra, các nhà khoa học đã phân tích các sự kiện về tế bào và phân tử từng bước xâm nhập của chúng. Giám sát động học của các sự kiện này cho thấy nhiệm vụ đối với tiến trình là qua trung gian kết dính merozoite với các hồng cầu, sắp xếp các sự kiện xâm nhập tiếp sau đó.
Thay vì, việc phối hợp trong quá trình xâm nhập liên quan đến sự hình thành các cầu nối chặt ở merozoite-hồng cầu, điều này tác động như một mối liên quan tiết ra chất “rhoptry”, ra các chất protein bề mặt và sự hoạt hóa vận động actomyosin. Khả năng làm giáng cấp mỗi bước phân tử cho phép các nhà khoa hoc đưa ra một mô hình phân tử của quá trình xâm nhập của ký sinh trùng vào trong hồng cầu.
Liệu sốt rét có bị xóa sổ hay không?
Bệnh SR ngày càng tỏ ra phức tạp hơn trong khi vaccine phòng bệnh vẫn đang thử nghiệm.
Trong khi vắc-xin phòng sốt rét vẫn còn đang thử nghiệm, một chủng muỗi mới dễ lây bệnh cho người hơn đã được phát hiện. Còn các nhà sản xuất dược phẩm thì vẫn đang cân nhắc đến "hiệu quả kinh tế" của vaccine.. Joe Cohen, nhà khoa học 67 tuổi đã dành 23 năm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, và đồng nghiệp là tác giả của vaccine phòng sốt rét. Ông nói rằng công việc thử nghiệm lâm sàng loại vaccine sốt rét gần như đã thành công. Đó là sự kiện mang tính đột phá, có thể cứu hàng trăm nghìn mạng người trên thế giới, nhưng khi nào nó sẽ được đưa tới người dân ở những nước nghèo thì chưa thể biết, vì công việc nghiên cứu khoa học mới chỉ là một nửa hành trình.
Thử nghiệm khả quan
Hãng dược Anh GlaxoSmithKline (GSK), nơi Cohen đang làm việc, đang tiêm thử vắc-xin sốt rét tại bệnh viện của quận Kilifi, miền đông Kenya. Đây là chương trình thử nghiệm lớn nhất từ trước tới nay. Họ cung cấp vắc-xin cho những trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ để đánh giá tính an toàn và hiệu quả của loại vắc-xin này. Ở châu Phi, khoảng 90% nạn nhân của bệnh sốt rét sống ở khu vực cận Sahara. Phần lớn bệnh nhân sốt rét đều dưới 5 tuổi.
Sốt rét là căn bệnh do ký sinh trùng trú ngụ trong nước bọt của muỗi gây ra. Loại vaccine sốt rét đang được thử nghiệm kích thích hệ miễn dịch hoạt động, ngăn ký sinh trùng lớn và sinh sôi trong gan. Nếu không có gì ngăn chặn, ký sinh trùng đi vào mạch máu, tấn công tế bào hồng cầu, khiến cơ thể bị sốt, người bệnh bị đau, có thể dẫn tới tử vong.
Vaccine do Cohen và đồng nghiệp tạo ra kết hợp công nghệ tạo ra vaccine viêm gan B, một số phần của ký sinh trùng sốt rét, và một hoá chất để tăng cường hoạt động của hệ miễn dịch trong cơ thể. Trong giai thử nghiệm thứ hai, vắc-xin này giảm 53% số trường hợp nhiễm sốt rét trong 8 tháng. Trong giai đoạn thử nghiệm thứ 3, khoảng 16.000 trẻ em châu Phi sẽ được tiêm vaccine vào tháng 2. Nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch, loại vắc-xin này sẽ được cấp phép và đưa vào sử dụng từ năm 2015. Các nhà khoa học và chuyên gia hy vọng tỷ lệ thành công của loại vaccine này ít nhất sẽ là 80% trước khi nó được chấp nhận sử dụng rộng rãi. GSK nói rằng giá của loại vaccine này sẽ rẻ vì hãng chỉ thu 5% lãi cận biên trên giá thành sản phẩm để tái đầu tư vào những loại vaccine mới cho bệnh sốt rét và những bệnh lâu nay ít được quan tâm. Tuy nhiên, GSK chưa đưa ra con số chính xác để so sánh chi phí sử dụng vaccine với các biện pháp khác như sử dụng màn chống muỗi để xem biện pháp này có mang lại hiệu quả kinh tế không.
Bài toán kinh tế
Sử dụng vaccine có kinh tế hơn các biện pháp khác như màn chống muỗi hay thuốc diệt côn trùng không? Đã có bằng chứng nào chứng tỏ loại vaccine đó sẽ làm giảm sự lây truyền của bệnh sốt rét nói chung, nhằm giúp những người chưa được tiêm vaccine? Một mũi tiêm có tác dụng trong bao nhiêu lâu? Tiêm vaccine có gây rủi ro gì không? Giới nghiên cứu và các nhà làm luật tuy rất hào hứng với loại vaccine sốt rét do Cohen tạo ra, nhưng vẫn băn khoăn nhiều vấn đề. Câu hỏi lớn nhất là: liệu vaccin nhằm giúp thế giới xóa bỏ căn bệnh cứ 45 giây lại cướp đi mạng sống của một đứa trẻ này có thực sự đáng đồng tiền?
Sốt rét đe dọa hơn nửa dân số trên hành tinh này và giết chết khoảng 800.000 người mỗi năm, trong đó có rất nhiều trẻ nhỏ. Tỷ lệ tử vong do bệnh này giảm trong thập kỷ qua, nhưng việc loại bỏ sốt rét trên toàn thế giới sẽ tiêu tốn hàng tỷ USD và làm giảm nguồn đầu tư để điều trị những bệnh khác. Giá cả vaccine chưa được quyết định là một trong những lý do khiến cuộc tranh cãi về cách thức, địa điểm và phạm vi áp dụng loại vaccine mới cho trẻ em ở châu Phi vẫn tiếp diễn.
Các nhà tài trợ thường tính xem họ nên sử dụng tiền vào chỗ nào để còn dành tiền cho những căn bệnh khác như bại liệt và đậu mùa. Đối với những bệnh này, vaccine gần như có thể đảm bảo người được tiêm vaccine không bao giờ bị bệnh nữa. Nhưng đối với sốt rét thì mọi chuyện phức tạp hơn nhiều vì nó còn phụ thuộc vào chu kỳ truyền bệnh qua muỗi và những hành động cụ thể để giảm lây nhiễm.
Liên minh toàn cầu về vaccine và tiêm chủng cho biết, họ đặt mục tiêu tiêm chủng cho hơn 40 triệu trẻ em mỗi năm. Và với bất kỳ loại vaccine mới nào được đưa vào sử dụng, liên minh này kỳ vọng chi phí cho mỗi ca chỉ dưới 10 USD. “Chúng tôi rất nhiệt tình với vaccine này và đang chuẩn bị đưa nó vào kế hoạch tài chính. Nhưng loại vaccine này sẽ không được sử dụng bằng bất kỳ giá nào mà phải mang lại bài toán kinh tế hiệu quả”, Nina Schwalbe, giám đốc điều hành chính sách và thực hiện của Liên minh, nói.
Khó loại bỏ triệt để
Trong khi loại vaccine phòng sốt rét vẫn trong giai đoạn thử nghiệm thì các nhà khoa học Pháp lại vừa phát hiện ở châu Phi một chủng muỗi mới dễ nhiễm ký sinh trùng sốt rét và truyền bệnh hơn, khiến tình hình càng thêm phức tạp. Loài muỗi mang tên Goundry được thu thập từ một số ao làng ở Burkina Faso được xác định là một phân nhánh của muỗi a-nô-phen. Loại muỗi này thích sống bên ngoài hơn trong nhà nên các biện pháp kiểm soát muỗi trong nhà hiện nay không hiệu quả
Christian Loucq, giám đốc của Sáng kiến vắc-xin của PATH, nói rằng, ngay cả khi vaccine mới được đưa vào sử dụng từ năm 2015, việc loại bỏ hoàn toàn căn bệnh sốt rét là cực kỳ khó khăn và tốn kém. Vấn đề loại bỏ sốt rét hoàn toàn khỏi thế giới này còn được cho là nguy hiểm và ngây thơ. Chương trình loại bỏ sốt rét toàn cầu kết thúc vào năm 1969, nhưng chỉ thành công trong việc loại bỏ sốt rét ở châu Âu, Bắc Mỹ, khu vực Caribbean, một phần của châu Á và Trung Mỹ, nhưng chưa bao giờ đạt tới phạm vi toàn cầu. Ngoài ra, một số người quan ngại rằng, khi vắc-xin sốt rét được sử dụng rộng rãi sẽ khiến mọi người chủ quan mà lơ là những biện pháp như sử dụng màn chống muỗi.
 Tiêm phòng vaccine thử nghiệm ở châu Phi. (Nguồn ảnh: Time)
|
Ngoài loại vaccine đang được thử nghiệm, Quỹ sáng kiến vaccine sốt rét của tổ chức phi chính phủ PATH đã tài trợ 200 triệu USD cho vaccine của hãng GSK với mục tiêu dài hạn là phát triển loại vaccine có hiệu quả tối thiểu 80% vào năm 2025. GSK cũng đã bắt đầu hợp tác với công ty công nghệ sinh học Crucell của Hà Lan để sản xuất vaccine dựa trên virus gây cúm thông thường nhằm tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Nhưng phải mất nhiều năm nữa thì loại vaccine này mới được đưa vào thử nghiệm lâm sàng.
PATH cũng đã ký thỏa thuận với hãng Merck & Co để phát triển dự án vaccine ngăn chặn ký sinh trùng sốt rét không đi vào gan. Nhưng kinh nghiệm cho thấy công việc này không đơn giản. Sanaria, hãng dược được nhận tiền tài trợ của PATH, gần đây thử nghiệm loại vaccine phòng sốt rét, nhưng vaccine chỉ bảo vệ được 5 trong số 80 tình nguyện viên. Ngoài ra còn có một số cách tiếp cận khác để ngăn sốt rét như không tiêm cho người mà tiêm phòng cho muỗi. Vaccine này vẫn được tiêm vào người để ngăn muỗi cắn không thể truyền ký sinh trùng sốt rét.