BALTIMORE, May 15 (AScribe Newswire) – Hàng năm, có khoảng 350 tới 500 triệu người bị chẩn đoán mắc sốt rét, phần lớn là khu vực cận sa mạc Sahara của châu Phi. Mặc dù hiện nay có nhiều phác đồ phòng chống và điều trị sốt rét đang được sử dụng, nhu cầu về các loại thuốc mới ngày càng gia tăng, vì một phần là do ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) đã phát triển kháng với một số thuốc đang lưu hành.
Giờ đây, các nhà khoa học tại Khoa Y-Đại học Johns Hopkins đã tìm ra phương cách mới để ngăn cản sự phát triển của KSTSR, và phát hiện này có thể là hướng đi mới cho công tác điều trị sốt rét. TS. Jun O.Liu, Giáo sư chuyên ngành Dược động học và Khoa học phân tử cho hay "Nghiên cứu về SR của chúng tôi nằm trong sứ mệnh giải quyết các vấn đề sức khoẻ toàn cầu của ĐH Johns Hopkins. Do đó, những phát hiện của chúng tôi vừa mở ra hướng đi mới trong điều trị sốt rét ở gốc độ sinh học phân tử, vừa giúp phát triển những hợp chất mới có tính tương tác cao nhằm nâng cao hiệu lực của chúng. Đây là những bước đi quan trọng để tiến tới giới thiệu những phác đồ mới giúp điều trị bệnh SR đạt hiệu quả cao hơn.”Những kết quả của nghiên cứu này đã được đăng trên chuyên san Hoá Sinh học vào ngày 27/02/2009.
 |
Johns Hopkins Medical Campus |
Nhiều năm qua, nhóm các nhà khoa học do GS. Liu dẫn đầu đã tập trung nghiên cứu protein có tên là MetAP2, được tìm thấy ở tất cả động vật từ con người tới các vi khuẩn đơn bào và có chức năng quan trọng đối với sự phát triển của tế bào. Do đó, nhóm nghiên cứu của GS. Liu lý giải rằng, nếu KSTSR cũng có protein MetAP2 của riêng chúng, việc phát hiện ra loại hợp chất có thể gây rối loạn chức năng của protein này sẽ ngăn chặn sự phát triển của KSTSR và từ đó giúp cho công tác phòng chống sốt rét được hiệu quả. Vì vậy, dựa trên hệ gen của KSTSR trên dữ liệu máy tính, họ đã phát hiện một loại protein rất giống với MetAP2 ở người, mà họ đặt tên là PfMetAP2 cho KSTSR Plasmodium falciparum, loài KSTSR thường gây sốt rét ác tính và tử vong cao ở người.
 |
TS. Jun O.Liu |
Gần đây, các nhà khoa học khác đã phát hiện ra loại thuốc kháng sinh có tên fumagillin có thể kìm hãm sự phát triển của KSTSR bằng cách gây rối loạn chức năng của protein MetAP2. Tuy nhiên, loại thuốc kháng sinh do con người bào chế này lại tiêu diệt luôn các tế bào não, vì vậy nhóm nghiên cứu của GS. Liu đã sản xuất ra những hợp chất khác có thành phần hoá học tương tự với fumagillin với hi vọng tìm được loại hoá chất ít độc nhưng lại có hiệu quả hơn đối với PfMetAP2. Một trong những hợp chất đó, fumarranol, được chọn để nghiên cứu kỹ hơn vì nó có tác dụng trên protein MetAP2 ở người và ít độc hơn đối với chuột thí nghiệm. Trước tiên, các nhà khoa học đã thử nghiệm xem liệu fumarranol có gắn kết với PfMetAP2 hay không bằng cách cho tiếp xúc fumarranol và fumagillin ở những liều lượng khác nhau lên chuột mang protein PfMetAP2 (nhóm thử nghiệm) và so sánh với các tế bào không cho tác dụng với hợp chất (nhóm chứng). Họ phát hiện ở những tế bào có dùng thuốc, fumarranol đã gắn kết với các protein PfMetAP2 và ngăn chận sự phát triển của chúng.
Tiếp theo, họ muốn biết rằng liệu fumarranol có thể ngăn chận KSTSR phát triển trong môi trường nuôi cấy hay không, bằng cách cho hợp chất này tiếp xúc với chủng P.falciparum đã kháng với thuốc SR và chủng P.falciparum đa kháng thuốc. Họ cũng phát hiện fumarranol có tác dụng tương tự đó là ngăn chận KSTSR phát triển.
Trong một thí nghiệm khác, đội nghiên cứu đã cho chuột bị nhiễm KSTSR điều trị bằng fumarranol với liệu trình 4 ngày sau nhiễm và đếm KSTSR trong máu. Họ phát hiện rằng sau 4 ngày điều trị, fumarranon có tác dụng làm giảm sự phát triển của KSTSR cũng giống như fumagillin. Sau 26 ngày nữa, họ không phát hiện KSTSR trong máu chuột và cho rằng những chú chuột này được chữa khỏi SR.
GS. Liu cho biết "Hướng đi tiếp theo để giới thiệu một phác đồ điều trị SR mới đó là tìm hiểu xem liệu fumarranol có phải là loại thuốc điều trị SR tối ưu nhất hoặc một hợp chất mới tương tự như fumarranol có tác dụng đặc hiệu hơn đối với KSTSR.”
Các đơn vị phối hợp tài trợ cho nghiên cứu thí điểm này là Viện Nghiên cứu Sốt rét thuộc Khoa Y tế công cộng của ĐH Johns Hopkins Bloomberg, Khoa Dược của ĐH Y khoa Johns Hopkins và Quỹ Keck.
http://www.hopkinsmedicine.org/pharmacology/research/liu.html
http://www.cell.com/neuron/