Trong thời gian qua, hàng năm Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tiếp nhận, điều trị một số bệnh nhân bị bệnh sốt mò. Mặc dù bệnh được phát hiện lẻ tẻ nhưng đa số người mắc bệnh có địa chỉ cư trú ở tại xã Phú Lương và Phú Hồ thuộc huyện Phú Vang. Để xác định ổ bệnh lưu hành, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã giúp địa phương điều tra loài mò truyền bệnh nhằm có biện pháp chủ động khống chế.
Đặc điểm của loài mò truyền bệnh
Loài Mò Trombicula thường truyền bệnh sốt phát ban do Rickettsia tsutsugamushi, bệnh lưu hành ở châu Á và Tây Thái Bình Dương. Mò trưởng thành dài khoảng 1-2 mm, màu đỏ sáng hoặc nâu đỏ, có một lớp lông nhung. Thiếu trùng giống con trưởng thành nhưng nhỏ hơn. Ấu trùng rất nhỏ, dài khoảng 0,15-0,30 mm. Cả con trưởng thành và thiếu trùng đều không đốt máu người và động vật, chúng sống trong đất và ăn các loại côn trùng nhỏ hoặc trứng côn trùng nhỏ. Riêng ấu trùng có khả năng đốt máu ở da.
Sau khi nở từ trứng, ấu trùng bò lên cỏ hoặc những bụi cây thấp, đám lá mục để đợi vật chủ là người hoặc động vật đi ngang qua. Khi người hoặc các loài bò sát, chim, thú ... đi qua hay nghỉ lại nơi chúng sống, ấu trùng mò bám chặt vào da. Ở người, ấu trùng chọn những nơi quần áo bó sát vào da để bám, thắt lưng và mắt cá chân là những nơi ấu trùng mò thường hay bám. Khi bám vào da, ấu trùng đốt máu vật chủ trong khoảng thời gian từ 2 ngày đến 1 tháng tùy theo loài. Sau đó chúng rơi xuống và chui vào đất, phát triển thành thiếu trùng và con trưởng thành.
Mò phân bố rải rác trong những vùng rất nhỏ vì nhu cầu riêng của chúng. Thiếu trùng và con trưởng thành cần điều kiện đất nhất định để sống và phát triển, ấu trùng cần có những động vật làm vật chủ như chuột hoang, các loài gặm nhấm nhỏ khác và chim. Nơi sống thích hợp cho mò trưởng thành là những đồng cỏ, những vùng cây bụi, núi rừng, đồng lúa tốt tươi và những cánh rừng đã bị phát quang. Mò cũng được tìm thấy ở công viên, vườn cây, bãi cỏ và những nơi ẩm thấp dọc theo bờ hồ, bờ suối. Ấu trùng mò bám vào người hoặc động vật khi đi qua trên các bụi cỏ, lá cây hay thân cỏ khô. Người cũng thường bị mò bám sau khi đi hoặc đứng trong những vùng có mò hoạt động. Ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, các bụi tre là nơi mò rất ưa thích trú ẩn.
Điều tra xác định loài mò truyền bệnh
Trong tháng 7 và tháng 10 năm 2009, Cử nhân Đỗ Công Tấn cùng cán bộ chuyên khoa thuộc Khoa Côn trùng, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tổ chức điều tra xác định thành phần loài, mật độ ký sinh của mò và tỷ lệ ký sinh của mò trên vật chủ tại xã Phú Lương, xã Phú Hồ, huyện Phú Vang và xã Hương Lộc, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Xã Phú Lương ở vùng trũng thấp, mùa mưa lụt kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch, đồng ruộng thường xuyên có nước ứ đọng kéo dài từ 10-15 ngày, hàng năm ruộng lúa canh tác với 2 vụ mùa chính. Dân cư ở đây sống tập trung từng cụm thành làng, xóm. Người dân có đời sống kinh tế ổn định, có vườn quanh nhà ở chật hẹp với nhiều cây bụi, cấu trúc nhà cửa kiến cố. Xã Phú Hồ ở gần xã Phú Lương và giống xã Phú Lương về đặc điểm vùng thấp trũng, ruộng lúa và cấu trúc nhà cửa. Xã Hương Lộc ở sát rừng nguyên sinh, rừng có nhiều tầng, đồng thời cũng có rừng trồng, chủ yếu là trồng cây bạch đàn, keo lai có tuổi từ 7-10 năm. Quanh khu dân cư ở thôn 1 có nhiều thửa ruộng nhỏ trồng lúa.
Kết quả điều tra bước đầu tại 3 xã ở Thừa Thiên Huế đã phát hiện có 10 loài mò Trombiculidae thuộc 5 giống khác nhau. Trong đó có 5 loài có khả năng truyền bệnh sốt mò là Leptotrombidium (Leptotrombidium) deliense chiếm 55,51%; Eutrombicula wichmanni chiếm 11,02%; Ascoschoengastia (Laurentella) indica chiếm 8,05%; Gahrliepia (Walchia) chinensis chiếm 3,81% và Gahrliepia (Walchia) parapacifica chiếm 3,39%. Thành phần loài mò ở xã Hương Lộc, Nam Đông (10 loài), phong phú hơn xã Phú Lương và Phú Hồ, Phú Vang (5 loài). Ở xã Hương Lộc có mặt đủ cả 5 loài mò có khả năng truyền bệnh sốt mò, trong lúc đó ở xã Phú Lương và xã Phú Hồ chỉ có 3 loài có khả năng truyền bệnh. Loài mò phân bố rộng và được phát hiện ở cả 3 xã điều tra là Leptotrombidium (Leptotrombidiun) deliense, Ascoschoengastia (Laurentella) indica và Eutrombicula wichmanni. Qua quá trình điều tra, đã thu thập mò từ 30 cá thể thú gặm nhấm và 18 cá thể vật nuôi ghi nhận mật độ của loài mò Leptotrombidium (Leptotrombidiun) deliense được xem là trung gian truyền bệnh sốt mò ở Việt Nam có mật độ cao nhất 2,73 có mặt tại đây.
Trong thời gian qua, một số bệnh nhân bị bệnh sốt mò có địa chỉ cư trú ở xã Phú Lương, xã Phú Hồ vào điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện huyện Phú Vang mặc dù phát hiện lẻ tẻ nhưng nguy cơ tiềm ẩn của bệnh sốt mò từ loài mò truyền bệnh là vấn đề cũng cần được quan tâm. Cần tăng cường công tác giám sát trung gian truyền bệnh và truyền thông giáo dục sức khỏe các biện pháp phòng chống mò đốt gây bệnh ở những nơi có nguy cơ cao như tại các địa phương này.
Bệnh lý do loài mò gây nên và cách phòng chống
Khi người bị mò đốt thường có cảm giác khó chịu. Những vết đốt của mò ở trên da gây ngứa ngáy dữ dội, bị kích thích và mẩn ngứa ở da, gọi là ngứa ngáy bụi rậm. Biểu hiện này thường thấy ở chân. Ở nơi bị mò đốt, da hơi sưng và đỏ, ở giữa điểm sưng đỏ là vị trí của ấu trùng mò đốt. Vì ấu trùng mò không thể nhìn thấy bằng mắt thường nên hầu hết mọi người bị mò đốt đều không phát hiện được sự có mặt của chúng cho đến khi xuất hiện vết đốt. Mò có thể truyền một số bệnh do Rickettsia và bệnh do virus cho con người nhưng bệnh thường hay gặp nhất là bệnh sốt mò do Rickettsia tsutsugamushi, còn được gọi là sốt phát ban bụi rậm. Các triệu chứng bệnh lý chính được ghi nhận là sốt cấp tính, đau đầu dữ dội và nổi hạch. Ở chỗ bị mò đốt lúc đầu có tổn thương với một vết loét có đóng vảy ở trên da, sau đó bệnh nhân bắt đầu sốt. Tùy thuộc vào nhiều yếu tố có liên quan, tỷ lệ tử vong do bệnh sốt mò dao động từ 1 đến 60%.
Người bị mắc bệnh sốt mò được phát hiện sớm có thể điều trị đáp ứng tốt với thuốc kháng sinh thông thường như Tetracycline và các dẫn xuất của nó. Đề phòng ấu trùng mò đốt máu và truyền bệnh bằng cách tránh tiếp xúc với những vùng đất có loài mò hoạt động, dùng hóa chất xua côn trùng bôi vào da và quần áo khi hoạt động ở các nơi nghi ngờ có mò. Việc phát quang và phun tồn lưu hóa chất diệt côn trùng trên thảm thực vật cũng là một biện pháp cần thiết.
Phòng chống mò bằng cách diệt nơi ở của mò sinh sống rất khó vì tính chất phân bố rộng rãi của chúng. Nếu có thể, cần phân loại các đám thực vật có nhiều ấu trùng mò trú ẩn gọi là các đảo mò, lấy cơ sở để làm sạch chúng bằng cách cắt, đốt và sau đó cày bừa đất trên bề mặt. Việc cắt, làm sạch cỏ cũng giúp cho việc phòng chống mò hoạt động. Những biện pháp đơn giản này nên thực hiện ở khu vực chung quanh nhà ở.
Ở những nơi không thể dọn sạch cỏ và thảm thực vật, các đảo mò có thể dùng hóa chất diệt côn trùng để phun tồn lưu, nên phun những cây cỏ cao đến 20 cm ở chung quanh khu vực nhà ở, bệnh viện, nơi đóng trại ... Kỹ thuật phun sương hóa chất diệt côn trùng cũng có thể sử dụng bằng các dụng cụ phun hạt nhỏ. Hóa chất thường được dùng thuộc nhóm phosphore hữu cơ hoặc nhóm pyrethroide tổng hợp.
Mặc dù bệnh sốt mò do loài mò truyền bệnh chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở một số địa phương, không phát triển thành dịch nhưng nguy cơ tiềm ẩn lây lan bệnh cần được sự quan tâm của ngành y tế và của cả cộng đồng. Việc xác định ổ bệnh, ổ dịch lưu hành còn khó khăn; công tác phát hiện, chẩn đoán bệnh dễ bị bỏ sót nên các cơ sở y tế ở những nơi có nguy cơ nên chú ý đến vấn đề này để chủ động phòng chống.