Sốt rét, một trong những bệnh do đơn bào trong máu đến nay vẫn đã và đang đe dọa sức khỏe toàn cầu và nó không ngừng “phát triển” ở một số quốc gia nhiệt đới và bán nhiệt đới trên toàn thế giới. Ước tính chừng 350-500 triệu ca sốt rét lâm sàng và hơn 1 triệu trường hợp tử vong hằng năm, đáng chú ý là số ca sốt rét và tử vong sốt rét tập trung ở châu Phi và sa mạc Sahara,trong đó trẻ em và phụ nữ mang thai vùng sub-Saharan Africa và Đông Nam Á chiếm tỷ lệ không nhỏ. Chương trình phòng chống sốt rét thành công, một trong những chìa khóa quan trọng không thể thiếu là khâu chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và quản lý ca bệnh một cách hiệu quả !important; mắc xích này đóng một vai trò then chốt để làm giảm tỷ lệ bệnh mắc bệnh và tử vong do sốt rét gây ra. Thành quả đạt được nhờ một phần rất lớn vào ngành y tế mỗi quốc giá, trong đó đáng chú ý vào cung cấp thuốc sốt rét có hiệu lực cao, đó là điểm nhấn đến dòng thuốc phối hợp ACTs (Artemisinine Based Combination Therapies). Song, qua nhiều nghiên cứu gần đây ở các mức độ khác nhau, từ trung ương đến địa phương, từ cấp vùng đến liên vùng, từ quốc gia đến liên quốc giavà quy mô toàn cầu đã cho thấy một số nét về hiệu lực thuốc sốt rét đã suy giảm hoặc hiệu lực thuốc quá kém, cụ thể một số thuốc cổ điển từ khi ra đời đến khi phát hiện kháng thuốc trong khoảng thời gian rất dài như thuốc quinine được giới thiệu năm 1632 đến năm 1910 phát hiện ca kháng đầu tiên, thuốc Chloroquine giới thiệu năm 1945 đến năm 1957 đã phát hiện kháng; bên cạnh đó một số thuốc vừa ra đời thì 1-2 năm sau đã xuất hiện kháng như thuốc Proguanil được giới thiệu năm 1948 đến năm 1949 đã phát hiện kháng, thuốc sulfadoxine ra đời năm 1967 và trong năm đó đã xuất hiện kháng hoặc atovaquion ra đời 1996 và kháng thuốc cũng trong năm 1996; thuốc có hiệu lực cao như mefloquine ra đời 1977 thì 4 năm sau đó đã xuất hiện kháng thuốc và lan rộng (1982); Còn số phận của thuốc đầy tiềm năng mà chúng ta đang dùng là artemisinine và các dẫn suất ra đời vào những năm 1990 thì ra sao? Quả thật, theo tổng hợp của Tổ chức y tế thế giới (2006-2007) thì nhóm thuốc artemisinine đơn trị liệu đã giảm nhạy, tăng nồng độ ức chế tối thiểu (MIC50, 90,99) mới đủ khống chế ký sinh trùng Plasmodium falciparum và đặc biệt tại Thailand và Ấn Độ đã xuất hiện các ca kháng thuốc trên lâm sàng; đặc biệt, một số nghiên cứu đa trung tâm trên thế giới cho biết thuốc artemisinine dùng đơn thuần đã đưa đến hậu quả giảm hiệu lực, do đó các chuyên gia y tế đã ra khuyến cáo và can thiệp vào các công ty dược phẩm có sản xuất artemisinine cho đơn trị liệu (monotherapy) ngừng ngay việc quảng cáo và khuyến khích sử dụng đơn trị liệu Artesunate và chuyển sang dùng dạng thuốc phối hợp ACTs (Artemisinine-based Combination Therapy) từ đầu tháng 2 năm 2006 đến nay đã tỏ ra hiệu quả cao trong điều trị.
  !important; |
Các đại biểu tham dự Hội thảo |
Việc điều chế một vaccine phòng bệnh sốt rét hiệu lực cao vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu, hình như chưa lóe lên tia hy vọng nào, trong khi thuốc điều trị ACTs vẫn là cứu cánh duy nhất đang dùng rộng rãi tại các tuyến điều trị sốt rét của các quốc gia, nghiên cứu một “thuốc mới” vẫn là ý tưởng thì công tác giám sát hiệu lực thuốc sốt rét là điều cần thiết và tối quan trọng. Đứng trước tình hình kháng thuốc sốt rét lan rộng và có nguy cơ đe dọa sức khỏe toàn cầu như vậy, Tổ chức Y tế thế giới đã quan tâm, các công ty dược không vì lợi nhuận, nhất là tại Trung Quốc đã đặt lên hàng đầu và nổ lực nghiên cứu nhiều thuốc mới nhằm mang lại sức khỏe cho hàng triệu người bệnh, đặc biệt nhóm thuốc ACTs.
Theo kế hoạch nghiên cứu kháng thuốc sốt rét được đề ra tại Phuket, Thái Lan và tại Hà Nội năm 2007, vừa qua kế hoạch cũng như đề cương nghiên cứu của 3 Viện Sốt rét KST-CT TƯ, Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, Viện Sốt rét KST-CT thành phố Hồ Chí Minh được Tổ chức y tế thế giới thông qua và duyệt kinh phí hoạt động. Nhằm thống nhất các quy trình làm việc và các bước trong khâu nghiên cứu in vivo và in vitro giữa các Viện, số liệu sẽ được thống nhất và đồng bộ, vừa qua Tổ chức y tế thế giới tại Việt Nam và Viện Sốt rét KST-CT TƯ đã tỏ chức Hội thảo triển khai nghiên cứu kháng thuốc vì mục đích trên, tại thành phố Đà Nẵng, từ ngày 18-20 tháng 08 năm 2008. Hội thảo bàn về các quy trình nghiên cứu để nhằm thống nhất, cũng như thời gian và nội dung công việc triển khai tại các điểm nghiên cứu mà các viện đảm trách.
Đến tham dự, điều hành và tham gia báo cáo tại hội thảo có sự hiện diện của bác sĩ Trần Công Đại, chuyên gia của Tổ chức y tế thế giới tại Việt Nam, Tiến sĩ Tạ Thị Tĩnh, trưởng khoa nghiên cứu Viện Sốt rét KST-CT TƯ, thạc sĩ Nguyễn Văn Hường, thạc sĩ Bùi Quang Phúc dồng phó trưởng khoa nghiên cứu Viện Sốt rét KST-CT TƯ cũng một số các bộ nghiên cứu chính của khoa, cử nhân Nguyễn Thị Xuyến, thuộc phòng khoa học đối ngoại của Viện Sốt rét KST-CT TƯ; Thạc sĩ Huỳnh Hồng Quang, trưởng khoa NCBSR cùng cán các bộ tham gia trực tiếp nghiên cứu của Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn; CN Nguyễn Đức Thịnh cùng nghiên cứu viên của Viện Sốt rét KST-CT thành phố Hồ Chí Minh; Ngoài ra, hội thảo còn có sự góp mặt của các y, bác sĩ, cử nhân y tế công cộng, cử nhân sinh học đến từ các tỉnh Bình Phước, Quảng Trị, Gia Lai, Ninh Thuận, Đăk Nông và Trường cao đẳng y tế Trung ương Đà Nẵng, các cán bộ tham gia hội thảo phần lớn là các nhà quản lý chương trình phòng chống sốt rét của tỉnh đang làm việc trực tiếp và đảm nhận các trọng trách lĩnh vực lâm sàng điều trị bệnh ký sinh trùng nói chung và sốt rét nói riêng, có kinh nghiệm về giám sát và quản lý tình hình sốt rét tại các tỉnh.
Nội dung trình bày tại hội thảo chủ yếu là tập trung thống nhất quy trình làm việc thử nghiệm In vivo và In vitro, giới thiệu qua lĩnh vực nghiên cứu dược động học, đánh giá nồng độ thuốc trong huyết tương trong nghiên cứu kháng thuốc sốt rét, quy trình đưa số liệu vào form nghiên cứu, phương pháp phân tích và xử lý số liệu theo phần mềm Excel trên máy vi tính (tại Trung tâm tin học Viettin), điểm qua tình hình sốt rét kháng thuốc trên thế giới, tình trạng sốt rét kháng thuốc khu vực miền Trung-Tây Nguyên, thông qua một số kết quả nghiên cứu kháng thuốc tại các điểm thuộc các tỉnh phía Bắc, miền Trung Tây Nguyên và Nam Bộ Lâm Đồng.
Trước khi kết thúc buổi hội thảo, các cán bộ tham dự hội thảo đều thống nhất với các bước và quy trình nghiên cứu kháng thuốc sốt rét đề ra trong thời gian nghiên cứu đến.