Giới thiệu
Áp xe gan do amíp là một bệnh khá phổ biến trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong đó có Việt Nam, bệnh có thể mắc ở nhiều lứa tuổi khác nhau, trung bình 20-50 tuổi gặp nhiều nhất, tỷ lệ nam giới mắc nhiều hơn nữ giới, người lớn nhiều hơn trẻ em và trẻ dưới 2 tuổi khá hiếm gặp tuy nhiên cũng đã có nhiều báo cáo trong y văn. Áp xe gan do amíp trên đối tượng nhũ nhi là rất hiếm gặp theo báo cáo trong y văn. Vừa qua, nhóm nghiên cứu của Lưu Đức Huy, Chung Thị Cẩm Hạnh, Trần Kiên và cộng sự tại bệnh viện Châu Đốc, tỉnh An Giang đã ghi nhận và báo cáo một ca bệnh đầu tiên tại đây trên một bé gái chỉ 7 tháng tuổi mắc abces gan do amíp.
Trình bày ca bệnh
Bệnh nhi Phạm Thùy L., 7 tháng tuổi, địa chỉ tổ 3, xã Xuân Tô, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, trong một gia đình gồm 4 người, gồm cha mẹ và 2 con, người anh lớn được 4 tuổi. Nhà rất khó khăn, thu nhập thấp, xây nhà ở gần kênh, sử dụng nước kênh để sinh hoạt (nấu ăn, nước uống, tắm rửa,…), dùng cầu tiêu chung trên kênh.
Tiền sử: bệnh nhi là con rạ, cân nặng lúc sinh là 2.900g, bé vừa bú sữa mẹ và sữa bình (Dielac), đến khi bé được 6 ngày ngưng sữa bình đổi sang ăn bột trẻ em tới 6 tháng tuổi rồi ăn cháo, cơm.
Bệnh sử: Bé sốt nóng, ho, sổ mũi đã 2 ngày, uống thuốc không rõ loại. Ðến 18 giờ ngày thứ 2, bé đi cầu có đàm lẫn ít máu 2 lần/ngày, bé khóc mỗi khi đi cầu và sa hậu môn (tự thu hồi). Ðổi sang uống thuốc nam, mới uống nửa thang bé hết đi cầu, bú và ăn uống bình thường. Ðến ngày thứ 5, bụng bé to dần và ngày càng tăng, mệt, khó thở, khóc, bứt rứt, la hét. Người nhà cho cháu nhập BV huyện Tịnh Biên điều trị 24 giờ rồi chuyển đến BV Châu Ðốc với chẩn đoán ban đầu là nhiễm trùng huyết và thiếu máu nặng.
Tình trạng khi nhập BV Châu Ðốc:
- Tổng trạng chung: thân nhiệt 38oC, nhịp thở 54 lần/phút, cân nặng 6 kg, bé tỉnh, bứt rứt, khóc, phù mắt và hạ chi, thở không co lõm lồng ngực, thiếu máu lâm sang;
- Khám thực thể cho thấy tim, phổi không phát hiện bệnh lý. Gan rất to, bờ dưới gan ngang rốn; lách không sờ thấy;
- Xét nghiệm máu: hồng cầu: 3.200.000/mm3, bạch cầu: 39.900/mm3, tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính: 75,20%, lymphocyte: 24,80%, dung tích hồng cầu trung bình: 20,20%;
- Siêu âm gan: hai ổ áp-xe ở phân thùy V (kích thước 36 x 30mm) và VI (57 x 53mm);
- X-quang phổi có bóng mờ dưới cơ hoành (P) có chiều cao 10-11cm, bóng cơ hoành (P) và (T) có2cm > !important; so với độ chênh lệch;
- Huyết thanh chẩn đoán Entamoeba histolytica (+) với hiệu giá 1/120, xét nghiệm a-míp trong phân (-);
- Tốc độ lắng máu: giờ thứ nhất 40mm, giờ thứ hai 80mm, men gan SGOT: 78 u/L, SGPT: 49 u/L.
Chẩn đoán xác định: Áp xe gan do amíp ở trẻ 7 tháng tuổi.
Ðiều trị: Thuốc Dehydroemetin 1mg/kg/24giờ trong 10 ngày, tiếp đó metronidazol liều 30mg /kg /24giờ, vitamin, chế độ dinh dưỡng; sau 10 ngày ngưng dehydroemetin, tăng liều metronidazol 50mg/kg /24 giờ.
Theo dõi diễn tiến bệnh:
- Ngày thứ 5, bệnh nhi còn sốt, gan to, ăn uống được. Cho truyền máu, siêu âm gan cho thấy gan (P) có 2 ổ tổn thương hỗn hợp, có giới hạn rõ đã tụ mủ (d 2 ổ: 6,6 cm và 13.6cm);
- Ngày thứ 10, giảm sốt, gan còn lớn, ăn uống được, đòi bú, hết phù. Siêu âm gan: gan (P) có 2 ổ hỗn hợp đã tụ mủ rõ, tạo vỏ vách dày (d 2 ổ: 3.6cm và 6.4cm). Cả 2 lần siêu âm đều không thấy có tràn dịch màng phổi (P);
- Ngày thứ 13, bệnh nhi hết sốt, bú được sữa nhiều. Ngừng dehydroemetine, tiếp tục dùng metronidazol nhưng tăng liều, bệnh nhi ra viện sau 13 ngày điều trị. Khoảng 10 ngày sau, bệnh nhi đến tái khám, làm siêu âm gan cho thấy ổ áp-xe có vách dày, hình thành cấu trúc nhu mô gan;
- Sau đó tiếp tục theo dõi cho siêu âm lại vào đợt tái khám tiếp theo thấy gan (P) còn hai ổ đã ổn định (d: 3.6 cm và 6.4cm).
Bàn luận về ca bệnh
Áp xe gan do amíp tuy rất thường gặp ở nước ta, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng lại là một bệnh hiếm gặp ở trẻ nhũ nhi. Trong y văn đã có vài báo cáo một số trường hợp, nhiều nhất là ở Châu Mỹ La tinh, ngay cả ở Mỹ cũng có báo cáo một trường hợp. Châu Phi cũng có một trường hợp sơ sinh và bốn trường hợp rơi vào lứa tuổi 2-8 tháng. Ở châu Á, có một trường hợp được báo cáo tại Pakistan ở em bé 3 tuần tuổi, ở Thái Lan abces gan trên một em bé 21 tháng tuổi. Riêng ở Việt Nam, hiện chưa thấy một báo cáo nào về áp xe gan do amíp trên nhũ nhi.
Bệnh án trên đây có thể là trường hợp được chẩn đoán đầu tiên tại Việt Nam, cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về giới tính, bệnh thường xảy ra ở nam giới hơn nữ giới, riêng ở trẻ em, dường như không óc sự khác biệt vế giới tính có lẽ số ca báo cáo quá nhỏ về cỡ mẫu. Nhờ có phương tiện chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt siêu âm nên hiện nay có thể chẩn đoán dễ dàng áp xe gan do amíp. Trong trường hợp này, ngoài thuốc đặc trị amíp, chúng tôi có tiến hành chọc hút mủ vì có nhiều ổ ápxe lớn, điều này phù hợp với nhiều tác giả. Vấn đề vệ sinh môi trường, ăn chín uống chín, nâng cao đời sống người dân, luôn là vấn đề chính trong việc phòng chống bệnh này nói riêng và các bệnh đường ruột nói chung.