Theo Quyết định số 2331/QĐ-TTg ngày 20/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia năm 2011, an toàn truyền máu là một trong 7 dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia y tế. Vấn đề này cần được quan tâm để bảo đảm an toàn cho người cho máu, an toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu và an toàn cho người nhận máu.
Các điều cơ bản về an toàn truyền máu
Trong thực hành y khoa, máu rất quan trọng và cần thiết cho việc điều trị nội khoa, cấp cứu ngoại khoa và sản khoa; đồng thời nó cũng rất cần để triển khai nhiều kỹ thuật cao như ghép tạng, mổ tim... Nhờ có máu mà nhiều bệnh nhân đã được cứu sống. Tuy nhiên, việc truyền máu có thể gây ra những tai biến nghiêm trọng nếu không bảo đảm, tuân thủ các nguyên tắc về an toàn truyền máu.
An toàn truyền máu ngày nay phải được hiểu theo nghĩa rộng là an toàn cho người cho máu, an toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu và an toàn cho người nhận máu.
- An toàn cho người cho máu trước đây chưa được quan tâm đúng mức, vì vậy việc bảo vệ sức khỏe cho người hiến máu phải bảo đảm các yêu cầu cần thiết, phù hợp với thông điệp của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phát động là “an toàn truyền máu bắt đầu từ tôi”. Như vậy, người cho máu hay còn gọi là người hiến máu phải được các nhân viên y tế tư vấn trước để tự sàng lọc, tự đánh giá tiền sử về tình trạng sức khỏe của mình và đối chiếu với các tiêu chuẩn hiến máu. Trên cơ sở đó, người hiến máu tự xác định, lựa chọn xem bản thân mình có đủ điều kiện và khả năng hiến máu hay không. Người hiến máu cũng phải được khám sức khỏe, xét nghiệm huyết cầu tố, số lượng tiểu cầu, proteine máu... trước khi hiến máu và các thành phần khác của máu. Người hiến máu chỉ được hiến máu khi có sự đồng ý của bác sĩ, đồng thời phải được chăm sóc, tư vấn sức khỏe khi tham gia hiến máu, hiểu biết các bệnh lây truyền qua đường máu tự bảo vệ sức khỏe và có thể trở thành người hiến máu nhắc lại lần sau bảo đảm an toàn.
- An toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu cũng là một việc đáng được quan tâm do trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhân viên làm công tác truyền máu như lấy máu xét nghiệm, tiếp nhận máu, sàng lọc túi máu, sản xuất các chế phẩm máu, phân phối máu... sẽ có nguy cơ bị nhiễm mầm bệnh từ nguồn máu của người hiến máu vì theo thống kê trên toàn quốc ghi nhận tỷ lệ người bị nhiễm viêm gan B chiếm khoảng từ 13% đến 15%, viêm gan C chiếm khoảng từ 3% đến 5%, nhiễm HIV chiếm khoảng 1%... Vì vậy khi tiến hành các kỹ thuật chuyên môn, cần có các biện pháp phòng hộ lao động tốt để bảo đảm an toàn cho người làm công tác truyền máu.
- An toàn cho người nhận máu trước tiên là phải an toàn về số lượng, bảo đảm đủ mọi nhu cầu về máu khi người bệnh cần. Ở nước ta, số lượng máu đáp ứng cho nhu cầu điều trị ước tính chỉ đạt khoảng 70%. Ngoài ra, an toàn về chất lượng sản phẩm máu cũng phải bắt đầu từ người hiến máu. Vì vậy phải nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của người hiến máu về các bệnh lây truyền qua đường máu, đường tình dục, các hoạt động hành vi nguy cơ nhiễm bệnh... để người hiến máu tự đánh giá, sàng lọc trước khi quyết định có tình nguyện tham gia hiến máu hay không.
Tất cả các đơn vị máu phải được sàng lọc các tác nhân lây nhiễm qua đường truyền máu như viêm gan B, viêm gan C, HIV, giang mai và sốt rét tại thời điểm lấy máu. Đối với bệnh viêm gan B, viêm gan C, nhiễm HIV phải sử dụng các kỹ thuật sàng lọc có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đương hoặc cao hơn kỹ thuật ELISA (Enzyme-linked immunosorbent assay); đối với bệnh giang mai phải sử dụng kỹ thuật có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đương hoặc cao hơn kỹ thuật VDRL (Venereal Disease Research Laboratory). Xét nghiệm sàng lọc sốt rét tối thiểu phải thực hiện bằng kỹ thuật soi lam máu giọt đặc nhuộm giemsa dưới kính hiển vi quang học.
Ngoài ra cũng cần bảo đảm an toàn về mặt miễn dịch của các sản phẩm từ máu như loại kháng thể bất thường, lọc bạch cầu, chiếu xạ... Máu và các chế phẩm từ máu phải được vận chuyển và bảo quản đúng nguyên tắc quy định.
Chỉ định truyền máu đúng là vấn đề cần phải chú ý vì máu và các chế phẩm từ máu có thể được xem là một loại thuốc điều trị. Vì vậy, cũng như tất cả các loại thuốc, việc chỉ định điều trị đúng, sử dụng hợp lý máu và các chế phẩm từ máu đóng vai trò quan trọng trong an toàn truyên máu. Những sai sót trong việc sử dụng máu và các chế phẩm từ máu có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí đe dọa ngay cả với tính mạng của người bệnh. Để có chỉ định truyền máu đúng và hợp lý, các bác sĩ lâm sàng cần nên xem xét hết các phương pháp điều trị khác trước khi quyết định truyền máu với phương châm “cần gì truyền nấy, không cần không truyền”. Nên hạn chế truyền máu toàn phần. Tất cả chỉ định truyền máu và các chế phẩm từ máu đều phải dựa trên sự kết hợp của hai yếu tố văn bản hướng dẫn sử dụng an toàn, hợp lý máu, các chế phẩm từ máu và thực tế lâm sàng của từng người bệnh.
Sử dụng máu và các chế phẩm từ máu an toàn bằng cách định nhóm máu, làm phản ứng chéo cho người bệnh và sản phẩm máu trước khi cấp phát; công việc này phải do 2 nhân viên y tế của phòng truyền máu thực hiện. Khi điều dưỡng viên hay kỹ thuật viên đi tiếp nhận máu và các chế phẩm từ máu phải kiểm tra, đối chiếu theo đúng nguyên tắc quy định của quy chế truyền máu. Việc thực hiện định nhóm máu và làm phản ứng chéo có thể tiến hành tại giường bệnh tùy theo chế phẩm máu nhận. Cần theo dõi sát người bệnh trong suốt quá trình truyền máu. Nếu có phản ứng phải ngừng truyền máu và báo cáo ngay cho bác sĩ điều trị cũng như bác sĩ truyền máu để xử trí kịp thời; sau đó lập biên bản báo cáo Hội đồng truyền máu của bệnh viện. Nếu cơ sở y tế chưa thành lập Hội đồng truyền máu của bệnh viện thì báo cáo cho Phòng Kế hoạch-Tổng hợp, Ban Giám đốc và Khoa Huyết học-Truyền máu.
Như vậy, an toàn truyền máu là một chuỗi các hoạt động gắn kết chặt chẽ và đan xen với nhau; bất kỳ một mắc xích nào trong chuỗi các hoạt động này không thực hiện bảo đảm đúng nguyên tắc quy định thì sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người bệnh.
Những giải pháp bảo đảm an toàn truyền máu
- Bảo đảm nguồn lực của người cho máu là một vấn đề sống còn của công tác truyền máu. Muốn có đủ nguồn lực này phải thực hiện công tác tuyên truyền, vận động phong trào hiến máu tình nguyện với nhiều hình thức khác nhau. Chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội cần vào cuộc, cùng chung tay, góp sức để sớm xã hội hóa việc hiến máu tình nguyện. Nên thực hiện tốt công tác biểu dương, tôn vinh, khen thưởng và bảo đảm các quyền lợi, đặc biệt là lợi ích về y tế cho những người hiến máu. Để làm được vấn đề này, phải có sự thống nhất giữa Ủy ban Quốc gia vận động hiến máu tình nguyện, Hội Chữ thập đỏ, các cấp chính quyền và Bộ Y tế.
Xây dựng được đội ngũ hiến máu tình nguyện nhắc lại lần sau càng nhiều thì việc an toàn truyền máu càng cao vì đây là lực lượng đã được khám, tuyển chọn, đủ sức khỏe để hiến máu; đồng thời đối tượng này cũng đã được các nhân viên y tế tư vấn về sức khỏe trước, trong và sau khi hiến máu nên đã có nhận thức tốt, có trách nhiệm cao trước cộng đồng. Lực lượng hiến máu dự bị ở các địa phương, tỉnh, thành phố cũng cần phải được xây dựng vì khi có lực lượng hiến máu dự bị càng nhiều thì mới có thể yên tâm đáp ứng đủ nhu cầu về máu và các chế phẩm từ máu nếu có thiên tai, thảm họa hay chiến tranh xảy ra.
- Phải tổ chức hệ thống truyền máu trong cả nước theo hướng tập trung hóa như xây dựng các Trung tâm Truyền máu quốc gia, các Trung tâm Truyền máu khu vực, các Khoa Truyền máu nằm trong bệnh viện... Khi đã được tập trung hóa thì mới có thể tập trung được các nguồn lực để đầu tư đồng bộ và hiện đại hóa trang thiết bị, góp phần nâng cao chất lượng về an toàn truyền máu.
- Cần đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cao về an toàn truyền máu. Công tác đào tạo phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và phải có chế độ, chính sách đặc thù cho cán bộ, nhân viên y tế ngành truyền máu.
- Chú ý quan tâm việc nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị chuyên môn kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin cho các trung tâm và các cơ sở truyền máu.
- Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy của nhà nước và chuyên ngành truyền máu để tạo được hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể. Tranh thủ sự hợp tác và viện trợ của các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo nguồn nhân lực, triển khai các kỹ thuật mới và sự tài trợ, giúp đỡ những trang thiết bị cần thiết.