Theo thống kê của Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi năm bệnh viện tiếp nhận điều trị khoảng 200 trường hợp bệnh nhân bị nhiễm bệnh uốn ván. Trên thực tế, nhiều người vẫn bị mắc bệnh này mặc dù đã có vaccine phòng ngừa, đây là thực trạng đáng báo động khi cộng đồng người dân chưa hiểu rõ được vấn đề.
Vừa qua, bệnh nhân tên Hy, làm nghề thợ rèn ở Kon Tum bị một vết thương nhỏ làm đứt tay, vì chủ quan không chích ngừa uốn ván nên sau 3 ngày đã bị triệu chứng cứng cổ, sốt, co giật... biểu hiện của bệnh nhiễm trùng uốn ván. Người bệnh phải điều trị kéo dài hơn một tháng, tất cả tài sản trong gia đình đều phải bán đi để chữa bệnh. Tương tự như vậy, bệnh nhân tên Tâm, làm nghề thợ sửa xe đạp, ở Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; vào cuối tháng 6/2010 cũng bị một vết đứt tay nhỏ khi sửa xe, chỉ sau một tuần có biểu hiện lên cơ co giật và được xác định nhiễm bệnh uốn ván. Còn rất nhiều trường hợp khác bị vết thương hở ngoài da hoặc xây xước nhỏ, đối tượng xem thường không chích ngừa uốn ván nên phải chịu hậu quả đáng tiếc xảy ra.
 |
Cơn co cứng uốn ván điển hình ở người lớn. |
Đặc điểm của bệnh uốn ván
Uốn ván là một bệnh cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uống ván Clostridium tetani gây ra. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào dòng máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh-cơ làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng cơ đó xuất hiện các cơn co giật. Cơn co giật thường xuất hiện khi có kích thích nhưng cũng có thể xuất hiện tự nhiên. Tùy theo mức độ nhiễm độc, vị trí vết thương và độ rộng cũng như điều kiện yếm khí tại vết thương, biểu hiện lâm sàng có thể là uốn ván khu trú như uốn ván thể đầu, co giật một chi... hay uốn ván toàn thể.
Khi bị vết thương hở ngoài da, trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani qua vết thương sẽ xâm nhập vào cơ thể. Sau thời gian ủ bệnh từ 5-12 ngày, đôi khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện sớm vào ngày thứ 2, thứ 3 hoặc muộn hơn vào ngày thứ 18. Bệnh khởi phát với triệu chứng cứng hàm do cơ hàm bị co cứng, không há được miệng. Cứng hàm là triệu chứng quan trọng, cứng hàm liên tục, tăng lên khi làm há miệng bệnh nhân bằng đè lưỡi. Sau đó các cơ mặt, cổ, lưng, tứ chi đều trong trạng thái co cứng. Người bệnh nằm cứng đờ, tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, có nét mặt đau khổ đặc biệt như trán nhăn, môi chúm lại, hai mép bị kéo lên trên. Trong tình trạng cứng đờ, bệnh nhân có những cơn kịch phát gây co giật, thở không đều, da tím tái. Các cơn co giật có thể ngắn hoặc dài, nhanh hoạt chậm. Những cơn kịch phát này có thể gây ngừng thở nếu không được cứu chữa kịp thời. Những cơn kịch phát tự nhiên xuất hiện thường do sự kích thích của tiếng động, ánh sáng... Ngoài các triệu chứng ở trên, đa số người bệnh đều bị sốt, có trường hợp sốt cao trên 41oC, trái lại có một số trường hợp thân nhiệt xuống dưới 35oC. Những rối loạn thân nhiệt chênh lệch như vậy có tiên lượng xấu.
Nếu không được phát hiện, chẩn đoán và điều trị kịp thời, người bệnh có thể bị tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.
Uốn ván sơ sinh là một trong những nguyên nhân gây chết hàng đầu ở một số nước đang phát triển tại châu Á châu Phi và Nam Mỹ nhưng trái lại, ở các nước phát triển uốn ván là một bệnh thường gặp ở người lớn tuổi.
Tỷ lệ tử vong của uốn ván tùy thuộc vào điều kiện hồi sức cấp cứu và khả năng điều trị sớm hay muộn. Thông thường, tỷ lệ tử vong do bệnh uốn ván rất cao, có thể chiếm tỷ lệ từ 10-80%. Việc điều trị phải kết hợp biện pháp xử trí mở rộng vết thương để loại bỏ điều kiện yếm khí, dùng thuốc penicilline để diệt vi khuẩn, dùng liệu pháp huyết thanh, chống co giật và hồi sức tích cực.
Bệnh uốn ván có thể dự phòng dễ dàng bằng cách dùng vaccine phòng bệnh. Tuy vậy, nhiều người vẫn bị mắc bệnh uốn ván mặc dù đã có vaccine phòng ngừa là một vấn đề quan tâm, cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe để cộng đồng người dân hiểu rõ lợi ích của việc phòng bệnh bằng vaccine.
Một số loại vaccine phòng bệnh uốn ván thường dùng
Vaccine uốn ván TT
Tên chung là vaccine TT, tên thương mại là vaccine uốn ván hấp phụ do Viện Vaccine và các chế phẩm sinh học Nha Trang sản xuất. Vaccine có thời gian bảo vệ trong vòng 5 năm.
Liều tiêm chủng tùy theo từng đối tượng. Để tạo miễn dịch cơ bản thường dùng 2 liều cách nhau ít nhất 30 ngày, sau 6-12 tháng tiêm nhắc lại liều thứ 3. Đối với phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ dùng 5 liều: liều thứ 1 tiêm ở tuổi dậy thì càng sớm càng tốt, liều thứ 2 tiêm cách liều thứ 1 ít nhất 30 ngày, liều thứ 3 cách liều thứ 2 ít nhất 6 tháng hoặc khi có thai, liều thứ 4 cách liều thứ 3 ít nhất 1 năm hoặc khi có thai lần sau, liều thứ 5 cách liều thứ 4 ít nhất 1 năm hoặc khi có thai lần sau. Đối với phụ nữ có thai chưa tiêm chủng lần nào, cần gây miễn dịch cơ bản bằng 2 liều, liều thứ 2 trước khi sinh ít nhất 30 ngày.
Tác dụng phụ của vaccine thường được ghi nhận là có quầng đỏ, sưng nhẹ tại chỗ tiêm, sốt từ 38-39oC; tác dụng phụ xảy ra nhẹ và tự mất đi. Vaccine chống chỉ định dùng cho những người đang mắc bệnh cấp tính hoặc có phản ứng với những lần tiêm trước.
Vaccine uốn ván hấp phụ (Tetanus toxoid vaccine adsorbed)
Tên chung là vaccine uốn ván hấp phụ, tên thương mại là Tetanus toxoid vaccine adsorbed, thời gian bảo vệ trong vòng 5 năm.
Vaccine được sử dụng để phòng uốn ván ở trẻ em và người lớn, đặc biệt là đối tượng dễ có nguy cơ phơi nhiễm với vi khuẩn uốn ván như phụ nữ tuổi sinh đẻ, những người có điều kiện lao động ở môi trường bên ngoài như làm vườn, nông dân, vận động viên, thợ rèn, thợ cơ khí... Phòng uốn ván sơ sinh bằng cách tiêm cho phụ nữ tuổi sinh đẻ và phòng uốn ván cho những người có vết thương hở ngoài da. Tiêm 2 liều 0,5ml cách nhau 4-6 tuần. Từ 6 tháng đến 1 năm sau tiêm nhắc lại 0,5ml để tạo miễn dịch lâu dài. Cứ 5-10 năm sau lại tiêm một liều 0,5ml để tạo được mức độ bảo vệ cao. Đối với trẻ sơ sinh tiêm liều miễn dịch cơ bản cho mẹ ngay khi có thai. Người đã được tiêm 2 liều trước khi có thai sẽ được bảo vệ chống lại uốn ván sơ sinh. Trẻ sinh ra trong vòng 5 năm được bảo vệ khỏi uốn ván sơ sinh. Nếu mang thai sau 5 năm thì phải tiêm nhắc lại. Đối với những người bị vết thương hở ngoài da, nếu đã được gây miễn dịch cơ bản đầy đủ hoặc đã được tiêm nhắc lại trong vòng 5 năm thì không cần tiêm nữa. Nếu đã quá 5 năm và nghi ngờ bị uốn ván thì tiêm ngay 0,5ml vaccine. Nếu tiền sử tiêm không rõ thì tiêm 1.500 IU huyết thanh kháng uốn ván và 0,5ml vaccine bằng 2 bơm tiêm ở 2 vị trí khác nhau. Nếu có thể thì tiêm 250 đơn vị globulin miễn dịch người thay cho huyết thanh uốn ván. Hai tuần sau, sau khi tiêm liều thứ 1 thì tiêm liều thứ 2 với 0,5ml và 1 tháng sau, tiêm liều thứ 3 với 0,5ml. Cần chú ý nếu tiêm kháng huyết thanh chống uốn ván bào chế từ huyết thanh ngựa thì phải thử test mẫm cảm của bệnh nhân trước khi dùng và phải chuẩn bị phương tiện chống sốc khi tiêm huyết thanh.
Tác dụng phụ của vaccine thường nhẹ và khu trú tại nơi tiêm. Có thể xuất hiện phản ứng viêm cùng với sốt thoáng qua, khó chịu và kích thích. Đôi khi thấy nổi hạch ở nơi tiêm nhưng rất hiếm gặp. Vaccine chống chỉ định dùng cho những người đang điều trị bằng corticosteroide, các thuốc ức chế miễn dịch khác...
Vaccine uốn ván Tetavax
Tên chung là vaccine uốn ván hấp phụ, tên thương mại là Tetavax, thời gian bảo vệ trong vòng 5 năm.
Vaccine được dùng với liều 0,5ml tiêm bắp thịt hoặc tiêm dưới da sâu. Để gây miễn dịch cơ bản ở người lớn, do tính kháng nguyên cao của vaccine nên cần tiêm 2 liều 0,5ml cách nhau 4-6 tuần. Từ 6-12 tháng sau mũi tiêm thứ 2 thì tiêm nhắc lại một liều 0,5ml. Để duy trì miễn dịch ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, một năm sau tiêm liều thứ 4, sau đó 1 năm tiêm tiếp liều thứ 5. Cần tiêm nhắc lại 1 liều 0,5ml cứ mỗi 10 năm. Đối với phụ nữ có thai, để phòng uốn ván sơ sinh cần tiêm 2 mũi cách nhau ít nhất 4 tuần; từ 6-12 tháng sau tiêm tiếp mũi thứ 3. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), người nhiễm HIV có hoặc không có triệu chứng cần được tiêm vaccine uốn ván Tetavax theo lịch tiêm thông thường.
Ngoài ra, trên thị trường còn có một số loại vaccine như vaccine bạch hầu-uốn ván hấp phụ với tên thương mại là DTVAX cũng thường được sử dụng, có thời gian bảo vệ 5 năm và những loại vaccine khác mới được phát triển, sản xuất sau này.
Đừng xem thường bệnh uốn ván
Hai trường hợp bệnh nhân đã nói ở trên và một số các trường hợp khác suýt thiệt mạng vì đã xem thường bệnh uốn ván. Người bệnh bị nhiễm vi khuẩn uốn ván từ vết thương ở ngoài da, xây xước nhẹ, đơn giản nên đã coi thường; nếu không được phát hiện, chữa trị kịp thời sẽ dẫn đến nguy cơ tử vong. Thực tế trên lâm sàng cho thấy thời gian ủ bệnh càng ngắn thì tỷ lệ tử vong càng cao; cơn co giật kịch phát càng nhiều và càng dài thì tiên lượng càng xấu do bị ngừng thở; sự rối loạn thân nhiệt với nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp cũng là dấu hiệu nguy kịch. Mặc dù đã có vaccine uốn ván phòng ngừa, bảo vệ nhưng vẫn có nhiều trường hợp bị mắc bệnh uốn ván vào bệnh viện, đây là một thực trạng đáng báo động khi người dân chưa được truyền thông giáo dục sức khỏe để biết được vấn đề này. Đừng xem thường bệnh uốn ván. Đừng để chết vì thiếu hiểu biết về bệnh uốn ván.