Tiểu cầu giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình cầm máu và đông máu. Khi tiểu cầu bị suy giảm, bệnh nhân dễ bị chảy máu, xuất huyết như xuất huyết dưới da, xuất huyết niêm mạc, xuất huyết tiêu hóa... Đặc biệt khi tiểu cầu giảm nhiều, người bệnh dễ có nguy cơ bị xuất huyết não; đây là một biến chứng nguy kịch có thể dẫn đến tử vong. Vì vậy cần bổ sung tiểu cầu cho bệnh nhân trong những trường hợp nguy kịch cần thiết.
Tế bào máu trong cơ thể con người có 3 loại là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Tiểu cầu được sinh ra ở tủy xương từ các mẫu tiểu cầu. Ở điều kiện sinh lý bình thường, mỗi ngày cơ thể của chúng ta có khoảng 1.011 tiểu cầu được sinh sản ra, tuy nhiên mức độ này có thể tăng lên gấp 10 lần khi có nhu cầu. Trong cơ thể người bình thường có khoảng từ 150.000 đến 400.000 tiểu cầu trên 1 mm3 máu và nó lưu hành trong máu khoảng từ 9 đến 12 ngày; sau đó sẽ chết đi do các đại thực bào của cơ quan lách phá hủy.
Trong một số trường hợp bệnh lý, bệnh nhân có thể bị suy giảm tiểu cầu về cả số lượng và chất lượng nên cần có chỉ định truyền khối tiểu cầu. Trên thực tế lâm sàng, có rất nhiều nguyên nhân gây nên giảm tiểu cầu. Vì vậy hàng ngày có rất nhiều bệnh nhân cần được truyền khối tiểu cầu để điều trị trong các trường hợp cần thiết.
Khối tiểu cầu được sản xuất bằng phương pháp tách tiểu cầu từ máu toàn phần. Khối tiểu cầu có thể tập trung từ nhiều người cho máu hoặc một người cho máu bằng máy tách tế bào tự động.Một đơn vị khối tiểu cầu (CPS) là lượng tiểu cầu được tách ra từ 1 đơn vị máu toàn phần riêng lẻ và chứa tối thiểu 55 x 109 tiểu cầu trong từ 50 đến 70 ml huyết tương.
Đối với khối tiểu cầu từ 1 người cho máu bằng máy tách tế bào (CPA) thì số lượng tiểu cầu vào khoảng từ 300-500 x 109 trong 200-400 ml huyết tương.
Khối tiểu cầu phải được lắc liên tục khi lưu trữ ở nhiệt độ từ 20 đến 24oC. Thời gian lưu trữ là 5 ngày. Việc truyền tiểu cầu phải được truyền cùng nhóm máu với hồng cầu. Các bệnh nhân bị giảm tiểu cầu về số lượng hoặc chất lượng đều có chỉ định điều trị bằng truyền khối tiểu cầu.
Ngưỡng truyền khối tiểu cầu tùy thuộc các loại bệnh nội khoa, ngoại khoa hoặc sản khoa.
Trong nội khoa, có thể truyền dự phòng khối tiểu cầu để ngăn ngừa xuất huyết ở các bệnh nhân giảm tiểu cầu nhưng chưa có triệu chứng nhằm giữ tiểu cầu ở mức tương đối an toàn theo cơ địa, tình huống lâm sàng và mức độ của tiểu cầu. Truyền khối tiểu cầu được sử dụng ở các bệnh nhân bị giảm tiểu cầu nhưng lâm sàng ổn định, không có các yếu tố nguy cơ xuất huyết; ở các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ xuất huyết như sốt, nhiễm trùng, tăng huyết áp, u não hoặc tụt tiểu cầu nhanh trong vòng 72 giờ; ở các bệnh nhân chuẩn bị thực hiện các thủ thuật xâm nhập chọc sinh thiết gan, chọc dò tủy sống, soi phế quản sinh thiết, đặt ống thông cathether, đang điều trị kháng đông máu, có hội chứng đông máu rải rác nội mạch... Truyền khối tiểu cầu cũng để điều trị ở các bệnh nhân có các biểu hiện xuất huyết như ban xuất chấm và mãng nhiều nơi, tụ máu lớn gây đau và chèn ép; xuất huyết võng mạc lúc soi đáy mắt, bọng u ở vòm miệng, huyết cầu tố tụt nhanh, rối loạn ý thức, rối loạn thị giác...
Trong ngoại khoa, tùy theo tình huống lâm sàng và bệnh lý để quyết định. Nếu có yếu tố nguy cơ xuất huyết thì phải truyền khối tiểu cầu để đạt số lượng tiểu cầu trên 100 x 109/l, đặc biệt đối với các phẫu thuật ở thần kinh và phẫu thuật ở phần sau của mắt. Đối với các trường hợp gây tê tủy sống, số lượng tiểu cầu trên 50 x 109/l là đủ.
Trong sản khoa, có thể truyền khối tiểu cầu trong các trường hợp mổ lấy thai hoặc các trường hợp sinh thường tùy theo mức độ của tiểu cầu.
Khối tiểu cầu được truyền theo liều lượng khác nhau của đối tượng bệnh nhân. Đối với người lớn, truyền 1 đơn vị khối tiểu cầu/7 kg trọng lượng cơ thể. Đối với trẻ em, truyền 1 đơn vị khối tiểu cầu/5 kg trọng lượng cơ thể.
Đánh giá hiệu quả của việc truyền khối tiểu cầu căn cứ vào dấu hiệu lâm sàng ngừng chảy máu và kết quả xét nghiệm như hiệu suất truyền tiểu cầu R (số lượng tiểu cầu sau truyền - số lượng tiểu cầu trước truyền x thể tích máu toàn thể / số lượng tiểu cầu đã truyền x 100). Thường tính hiệu suất truyền tiểu cầu R ở các thời điểm 1 giờ, 4 giờ, 24 giờ để đánh giá thời gian sống sót của tiểu cầu sau khi truyền vào cho nạn nhân hoặc bệnh nhân. Nếu chỉ số R (1 giờ) khoảng từ 50 đến 60% là bình thường; nếu dưới 20% là không hiệu lực và thường do bất đồng miễn dịch hệ HLA (Human Leucocyte Antigen). Đối với các tác nhân nhiễm trùng cũng làm tiểu cầu nhanh chóng giảm trong vòng từ 4 đến 6 giờ. Ngoài ra cũng còn có những nguyên nhân khác như qua trình lưu trữ tiểu cầu lâu, ảnh hưởng của sốt, sử dụng một số loại thuốc men... thì khả năng xảy ra chậm hơn. Đối với các trường hợp truyền khối tiểu cầu không hiệu quả, nên truyền khối tiểu cầu phù hợp hệ HLA (Human Leucocyte Antigen) tách bằng máy tự động từ 1 người cho máu.