Tác dụng không mong muốn khi dùng thuốc chống giun sánNước ta có tỷ lệ nhiễm giun sán khá cao. Thuốc chống giun sán hiện nay có hiệu quả cao, dễ sử dụng hơn trước và có nhiều loại để lựa chọn. Tuy nhiên, khi dùng thuốc này cần lưu ý tới một số tác dụng không mong muốn do thuốc có thể xảy ra…
Albendazol:
Thuốc còn có các tên như albenza, zeben, zentel có tác dụng tốt với nhiều loại giun (giun đũa, giun kim, giun tóc, giun móc...). Đây là thuốc có tác dụng trên cả giai đoạn trưởng thành và giai đoạn ấu trùng của các loại giun sán ký sinh trong ống tiêu hóa, diệt được trứng giun đũa và giun tóc.
Tác dụng phụ có thể gặp như đau bụng, tiêu chảy, chóng mặt, mệt, mất ngủ. Dùng liều cao, kéo dài để điều trị bệnh nang sán hoặc bệnh ấu trùng sán lợn có tổn thương não, tác dụng có hại thường gặp nhiều và nặng hơn như đau đầu, rối loạn tiêu hóa (nôn, buồn nôn, đau bụng), rụng tóc, ban đỏ, ngứa, giảm bạch cầu... Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai, trẻ em dưới 2 tuổi, người có bệnh gan nặng.
Mebendazol:
Các thuốc như fugacar, vermox, mebutar đều có thành phần là menbendazol. Thuốc có hiệu quả cao trên các giai đoạn trưởng thành và ấu trùng của giun đũa, giun kim, giun tóc, giun móc và diệt được trứng của giun đũa, giun tóc.
Khi dùng thuốc, đôi khi gặp rối loạn tiêu hóa (đau bụng, tiêu chảy), đau đầu nhẹ. Không dùng thuốc cho người mẫn cảm với thuốc, phụ nữ có thai, trẻ em dưới 2 tuổi, suy gan.
Niclosamid (niclocide):
Đây là thuốc diệt sán, có tác dụng với sán bò, sán lợn, sán cá, sán dây ruột, không có tác dụng trên ấu trùng sán lợn. Khi dùng thuốc có thể gặp các rối loạn nhẹ ở đường tiêu hóa như buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy, đau đầu, hoa mắt…
Praziquantel (biltricid, cysticid):
Thuốc có hiệu quả cao đối với giai đoạn trưởng thành và ấu trùng của sán máng, các loại sán lá (sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán lá ruột) và sán dây (sán cá, sán chó, sán mèo, sán bò, sán lợn) nhưng không diệt được trứng sán và không phòng được bệnh nang sán.
Các phản ứng có hại thường nhẹ, xảy ra một vài giờ sau uống thuốc và có thể kéo dài tới 1 ngày, hay gặp: đau đầu, chóng mặt, choáng váng, buồn nôn, nôn, đau bụng, ngứa, mề đay, sốt nhẹ, đau cơ - khớp, tăng nhẹ men gan. Các dấu hiệu sốt nhẹ, ngứa, phát ban đôi khi đi cùng với tăng bạch cầu ưa acid có thể do giải phóng protein ngoại lai từ sán chết. Khi dùng thuốc không được lái xe, điều khiển máy móc... vì praziquantel gây chóng mặt, choáng váng.
Metrifonat (bilarcil):
Thuốc có tác dụng diệt sán máng gây bệnh ở bàng quang cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng, không có hiệu lực đối với trứng sán lá, do đó trứng vẫn tồn tại trong nước tiểu một vài tháng sau khi sán trưởng thành đã bị diệt. Metrifonat có thể gây triệu chứng cường hệ cholinergic nhẹ: buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy, co thắt phế quản, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, vã mồ hôi... Các dấu hiệu này có thể bắt đầu 30 phút sau khi uống thuốc và kéo dài tới 12 giờ. Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai.
Khi uống thuốc: Viên nào nên bẻ và viên nào không nên?
Thông thường, bệnh nhân bẻ nhỏ viên thuốc để uống do nhiều lý do. Tuy nhiên, việc bẻ nhỏ thuốc này nảy sinh nhiều vấn đề như: không đúng liều lượng, làm thuốc bị “xuống cấp” do tiếp xúc không khí, một số thuốc sẽ bị thay đổi tốc độ hòa tan thuốc...
Việc chia nhỏ viên thuốc thường được yêu cầu do thầy thuốc muốn bệnh nhân dùng thuốc ở liều lượng mà viên thuốc làm sẵn không có, hoặc thầy thuốc muốn bệnh nhân tăng từ từ liều lượng cũng như giảm từ từ liều lượng. Những yếu tố ảnh hưởng đến liều lượng sau khi bẻ thuốc sẽ phụ thuốc vào chính viên thuốc ấy và cũng phụ thuộc vào “kỹ năng” của người bẻ thuốc.
Những yếu tố liên quan đến thuốc
Sự bẻ thuốc không đều sẽ gây nên sự tăng hoặc giảm liều lượng thuốc cần uống. Đối với những thuốc có chỉ số trị liệu hẹp sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, chẳng hạn như: thuốc warfarin hay digoxin. Đối với những thuốc có khung trị liệu rộng thì sự “chập chờn” về liều lượng sẽ gây hậu quả ít nghiêm trọng hơn.
Một khi viên thuốc được tháo ra khỏi vỉ sẽ dễ bị mất chất lượng, bệnh nhân có thể bị những tác dụng phụ do những sản phẩm phụ trong quá trình phân hủy thuốc gây ra. Một khi viên thuốc bị bẻ ra thì sự phân ly thuốc và sự hấp thụ thuốc trong cơ thể sẽ bị thay đổi nhất là những loại viên bao hoặc viên có tác động kéo dài.
 |
Cần kiểm tra thông tin thuốc để xem thuốc có thích hợp cho việc bẻ viên hay không |
Một số viên thuốc được nhà sản xuất làm sẵn rãnh nhằm thuận tiện cho việc bẻ đôi viên thuốc, sự ảnh hưởng đến việc phân chia viên thuốc cũng phụ thuộc vào hình dạng, kích cỡ của viên thuốc và cả đường rãnh. Một số lọai thuốc dù có làm đường rãnh nhưng sự bẻ đôi cũng chưa hẳn là đồng đều. Một khi viên thuốc được bẻ ra thì sẽ không ổn định dù chỉ trong thời gian ngắn. Việc bảo quản phần còn lại của viên thuốc cũng rất quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng thuốc. Có bệnh nhân bỏ nửa viên đã bẻ vào chung lọ thuốc (có thể “lây” sự xuống cấp cho những viên thuốc khác do có thể xảy ra các phản ứng hóa học), có bệnh nhân bỏ vào một lọ thuốc trống khác (rất nguy hiểm vì sẽ dễ nhầm thuốc).
Những yếu tố liên quan đến bệnh nhân
Người bệnh có thể dùng tay để bẻ viên thuốc ra làm 2 phần, cũng có bệnh nhân dùng dao để thuốc trên thớt và cắt, có bệnh nhân dùng hẳn một dụng cụ cắt thuốc mua từ nhà thuốc. Nếu cắt không đúng cách hoặc bẻ không đúng cách thì 2 mẩu thuốc sẽ không bằng nhau hoặc một trong 2 hoặc cả 2 mẩu bị bể đi một phần nhỏ. Chia thuốc ra làm tư lại là một công việc khó khăn hơn vì làm dễ thất thoát thuốc hơn, gây ra sự biến đổi lớn về lượng thuốc cần được đưa vào cơ thể.
Những bệnh nhân cao tuổi hoặc những người có bệnh như thấp khớp, Parkinson thì việc cắt thuốc càng khó khăn hơn, đặc biệt những bệnh nhân được điều trị với một chế độ trị liệu đặc biệt đòi hỏi phải tăng liều thuốc từ từ hoặc phải bẻ nhỏ nhiều hơn 1 loại thuốc.
Tóm lại, việc quyết định chia nhỏ viên thuốc nên căn cứ vào những hướng dẫn sau:
Kiểm tra thông tin thuốc để xem thuốc có thích hợp cho việc bẻ viên hay không? Chỉ nên bẻ những viên có rãnh, bệnh nhân cần được theo dõi và tư vấn những việc cần phải tuân thủ khi được điều trị bằng thuốc phải bẻ viên. Để tăng độ chính xác của thuốc cần chia viên, nên sử dụng dụng cụ cắt thuốc bán ở nhà thuốc, bệnh nhân cần được tư vấn về việc bảo quản những viên thuốc đã được bẻ.
Những loại thuốc không nên bẻ
·  !important; Viên không có rãnh: d-penicillamine (D-Penamine), acarbose (Glucobay 50mg), metformin (Diaformin 850), tiludronate (Skelid).
·  !important; Viên quá dày: alendronate 40mg (Fosamax 40mg), finasteride (Proscar 5mg), fosinapril (Monopril), amiloride (Midamor).
·  !important; Viên bao film: nifedipine (Nifecard), donepezil (Aricept), tamoxifen (Nolvadex), azathioprine (Imuran 25mg), valproate (Epilim 200mg, Epilim 500mg), diclofenac (Voltaren), mesalazine (Mesasal), pantoprazole (Somac).
·  !important; Các thuốc tác động kéo dài: felodipine (Agon SR), cefaclor CD 375mg (all brands), potassium chloride (KSR, Slow K, Span K), tramadol (Tramal SR).