Ngày 20/2/2011, Ban Điều hành Dự án phòng chống sốt xuất huyết Trung ương đã họp đánh giá hoạt động phòng chống sốt xuất huyết năm 2010 và triển khai kế hoạch phòng chống sốt xuất huyết năm 2011. Tại cuộc họp các thành viên Ban điều hành đã thảo luận tìm nguyên nhân khiến dịch sốt xuất huyếtbùng nổ trong năm 2010 và đề xuất các giải pháp ngăn chặn khả thi trong năm 2011 và các năm tiếp theo.
Tình hình dịch bệnh sốt xuất huyết năm 2010
Theo Cục Y tế dự phòng-Bộ Y tế, trong năm 2010 bệnh dịch sốt xuất huyết gia tăng và bùng phát thành dịch ở nhiều vùng, cả nước ghi nhận 128.831 trường hợp mắc, 109 trường hợp tử vong; số mắc tăng 22% và số tử vong tăng 25,3% so với năm 2009. Qua phân tích số mắc/số tử vong do sốt xuất huyết năm 2010, dịch sốt xuất huyết không có sự gia tăng đột biến ở khu vực miền Bắc và miền Nam, nhưng lại tăng cao và bùng phát thành dịch ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên. So sánh năm 2010/2009, miền Nam số mắc 74.169/73.890 tăng 0,3%, số tử vong 80/74 tăng 6 trường hợp; miền Bắc số mắc 5.542/18.485 giảm 3,3, không có tử vong (0/4); miền Trung số mắc (35.865/11.519) tăng 3,1 lần, số tử vong (24/8) tăng 3 lần; Tây Nguyên số mắc 13.255/1.476 tăng 8,9 lần, tử vong 5/1 tăng 4 trường hợp. Đa số các trường hợp tử vong xảy ra do sốt xuất huyết Dengue độ III, IV và tỷ lệ trẻ em mắc SD/SXHD chiếm 46,4%.
Trong tổng số 17.332/128.831 (13,5%) bệnh nhân nghi sốt xuất huyết được chẩn đoán xét nghiệm huyết thanh Mac-Elisa, phát hiện 8.607 mẫu dương tính (49,7%); tỷ lệ xét nghiệm Mac-Elisa dương tính cao nhất ở khu vực miền Nam 3.824/6.553 mẫu(58,4%), miền Trung 4.051/8.795 mẫu (46,1%), Tây Nguyên 466/830 mẫu (56,1%), miền Bắc 266/1.154 mẫu (23,1%). Có 4.829 mẫu phân lập vi rút, chiếm 3,3% so với tổng số bệnh nhân, trong đó có 676 mẫu dương tính (356 D1, 230 D2, 58 D3, 32 D4), týp vi rút lưu hành chủ yếu của các khu vực là D1 (52,7%), D2 (34%).
Kết quả giám sát véc tơ thấy chỉ số BI và DI cao ở các khu vực từ tháng 4-11/2010, cao nhất ở khu vực miền Nam và thấp hơn ở miền Trung-Tây Nguyên; miền Bắc các chỉ số véc tơ có mức độ khác nhau ở các điểm giám sát khác nhau, có nhiều điểm chỉ số véc tơ vượt ngưỡng gây dịch như ở Nghệ An, Hà Tĩnh; đáng chú ý là các điểm điều tra thuộc tỉnh Nam Định và Thái Bình chưa tìm thấy sự có mặt của Ae. Aegypti. Phần lớn các tỉnh thuộc khu vực miền Trung và Tây Nguyên có chỉ số bọ gậy cao hơn mức cho phép (chỉ số nhà có bọ gậy >10%, Breteau >20), thậm chí có chỉ số BI cao quá ngưỡng cho phép như: Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hoà, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Nông.
|
Số mắc SD/SXHD theo các tháng tại các khu vực năm 2010 |
Hoạt động phòng chống sốt xuất huyết
Trong năm 2010, Dự án phòng chống sốt xuất huyết là 84 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước cấp, nên các hoạt động phòng chống sốt xuất huyết được triển khai đồng bộ và có hiệu quả bảo vệ cho 86.210.800 người ở 690 huyện và 11.055 xã trên cả nước với sự tham gia của Cục Y tế dự phòng, Cục Quản lý khám chữa bệnh, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TP. Hồ Chí Minh, Viện Vệ sinh Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới trung ương, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế, Bệnh viện Nhi đồng 1, Bệnh viện Nhi đồng 2 và Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh
Trong hai năm thực hiện Dự án (2009-2010), có sự chỉ đạo thống nhất từ Bộ Y tế đến các Viện, Sở và các đơn vị trong hệ y tế dự phòng và điều trị tại các địa phương trong việc triển khai công tác phòng chống sốt xuất huyết. Kinh phí, vật tư, trang thiết bị, hoá chất của Dự án đã được cung cấp kịp thời, đầy đủ và đúng tiến độ. Kế hoạch, chỉ tiêu của Dự án đã được Ban điều hành Trung ương xây dựng ngay từ đầu năm rất rõ ràng, cụ thể. Các Sở Y tế, Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh/thành phố đã chủ động trong hoạt động phòng chống sốt xuất huyết và phối hợp chặt chẽ trong mọi hoạt động với Ban điều hành Dự án Trung ương, Khu vực. Cục Y tế dự phòng đã tham mưu xây dựng nhiều văn bản hướng dẫn và phối hợp với O2TV xây dựng bộ phim “Vì sao sốt xuất huyết dai dẳng” phát sóng trên VTV2 vào Quý III/2010; phân phối 312.907 tờ rơi phòng chống sốt xuất huyết tới Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh, thành phố và các đơn vị khác; phát sóng thông điệp phòng chống sốt xuất huyết trên đài truyền hình Trung ương và địa phương, triển khai các hoạt động truyền thông tại cộng đồng, hỗ trợ mua báo “Sức khoẻ đời sống” hỗ trợ đến tuyến xã nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức phòng chống bệnh tật trong đó có bệnh sốt xuất huyết. Bộ Y tế đã thực hiện Công điện số 1668/CĐ-TTg ngày 18/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh/thành phố đã tăng cường chỉ đạo công tác phòng chống sốt xuất huyết trên địa bàn, không để dịch lan rộng, kéo dài.
Hoạt động phun hoá chất diệt muỗi phòng chống sốt xuất huyết đã được các tỉnh triển khai kịp thời, hiệu quả, đặc biệt tại các điểm có nguy cơ cao. Hoạt động diệt bọ gậy/lăng quăng và làm sạch ở cộng đồng thông qua đội ngũ cộng tác viên (CTV), học sinh và các tổ chức xã hội được người dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia, đã làm giảm đáng kể số lượng phế thải, làm sạch môi trường sống và giảm nơi sinh sản của bọ gậy. Các hoạt động tập huấn, giám sát dịch tễ, chẩn đoán và điều trị, hoạt động diệt bọ gậy ở cộng đồng đã đi vào nề nếp, được tăng cường triển khai trước mùa dịch ở tất cả các tuyến và đạt hiệu quả. Đã thực hiện điều tra và báo cáo 100% các trường hợp tử vong do sốt xuất huyết. Mạng lưới cộng tác viên được củng cố, hoạt động ổn định và có hiệu quả. Vãng gia/thăm hộ gia đình thường xuyên, tuyên truyền, và vận động đến tận hộ gia đình. Ban điều hành quốc gia đã phối hợp chặt chẽ với Ban điều hành các khu vực, chủ động theo dõi, giám sát diễn biến tình hình dịch tại các địa phương trọng điểm trong năm 2010, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn triển khai các hoạt động phòng chống sốt xuất huyết, phun hoá chất dập dịch sốt xuất huyết theo đúng hướng dẫn đã ban hành. Huy động được sự cộng tác, quan tâm và hỗ trợ của các Ban, ngành, đoàn thể xã hội, chính quyền, nhà trường và y tế tham gia các chiến dịch diệt lăng quăng/bọ gậy. Tuy nhiên, ở một số địa phương các cấp Chính quyền chưa trực tiếp quan tâm, chỉ đạo công tác này, việc phối hợp giữa ngành y tếvà các Ban, Ngành, Đoàn thể còn thiếu chặt chẽ. Các chiến dịch diệt bọ gậy/lăng quăng mặc dù đã được tổ chức nhưng mới dừng lại ở tổ chức các lễ phát động, nặng về hình thức, chưa hiệu quả và không duy trì được lâu dài. Hoạt động tuyên truyền giáo dục đã triển khai ở tất cả các khu vực dưới nhiều hình thức thông qua phương tiện thông tin đại chúng (tivi, đài, báo), cung cấp tài liệu giáo dục tuyên truyền cho nhiều đối tượng (tranh, áp phích, tờ rơi, thời khoá biểu, sách hướng dẫn, sổ tay….).
Những khó khăn tồn tại
Về tổ chức chỉ đạo, tất cả các tuyến đã thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch, tuy nhiên việc chủ động phối kết hợp chưa được linh hoạt, còn mang nặng tính hình thức, giao khoán cho ngành y tế. Chưa đáp ứng kịp thời với tình hình diễn biến phức tạp của dịch sốt xuất huyết. Cán bộ chuyên trách các tuyến tỉnh, huyện phải kiêm nhiệm nhiều việc khác nhau. Trình độ chuyên môn hạn chế, lúng túng trong công tác giám sát ca bệnh tại các ổ dịch và xử lý dịch. Mạng lưới CTV mới thành lập, chưa có kinh nghiệm, địa bàn rộng, phụ cấp thấp. CTV còn thiếu nhiệt tình, hộ gia đình thiếu kiến thức hoặc không quan tâm về phòng chống dịch sốt xuất huyết.
 |
ý thức tự phòng bệnh như diệt bọ gây, vệ sinh môi trường xung quanh nhà của một số người dân còn hạn chế. |
Về kiểm soát côn trùng trong các chiến dịch diệt bọ gậy/lăng quăng, mặc dù đã đươc tổ chức đúng theo quy trình các bước, nhưng mới chỉ dừng lại ở lễ phát động, còn nặng về hình thức, chưa hiệu quả và không duy trì được lâu dài. Khu vực miền Nam tình hình côn trùng biến đổi đa dạng, một số tỉnh miền Đông không còn theo quy luật cũ (Bình Dương, Bà rịa-Vũng Tàu) và có mật độ côn trùng xấp xỉ các tỉnh miền Tây Nam bộ. Hoạt động chiến dịch diệt lăng quăng của tỉnh được đầu tư với khoản kinh phí khá lớn trong nhiều năm liên tiếp nhưng hoạt động này hầu hết được giao khoán cho tuyến xã thực hiện, thiếu kiểm tra giám sát của tuyến trên, chính quyền địa phương và Ban chỉ đạo phòng chống SXH các cấp nên hiệu quả mang lại không tương xứng với kinh phí địa phương đã đầu tư cho chiến dịch. Lực lượng tham gia chiến dịch, số ổ lăng quăng phát hiện giảm so các năm. Điều này cho thấy việc huy động cộng đồng vào chiến dịch có xu hướng khó khăn hơn và sẽ dẫn đến tình trạng làm “chiếu lệ” không hiệu quả nếu không có sự quan tâm và giám sát đúng mức. Khu vực Tây Nguyên giám sát định kỳ hàng tháng các chỉ số muỗi và bọ gậy tại các xã, phường trọng điểm. Điều tra vectơ trước và sau khi xử lý dịch nhằm đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng chống; điều tra, xác định ổ bọ gậy nguồn 2 lần/1 năm tại 4 tỉnh nhằm đưa ra các biện pháp phòng chống vectơ thích hợp cho từng địa phương. Hoạt động của của đội ngũ cộng tác viên Khu vực Tây Nguyên, không ít các cấp chính quyền, đoàn thể ở một số địa phương trong khu vực, đặc biệt địa phương đã có dịch sốt xuất huyết xảy ra chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo công tác phòng chống dịch, phối hợp giữa ngành y tế và các Ban, Ngành, Đoàn thể còn thiếu chặt chẽ; các chiến dịch diệt bọ gậy, mặc dù đã đươc tổ chức đúng theo quy trình các bước, nhưng mới chỉ dừng lại ở lễ phát động, còn nặng về hình thức, chưa hiệu quả và không duy trì được lâu dài; mạng lưới CTV được xây dựng lại từ đầu năm 2010, nhiều CTV mới, thiếu kinh nghiệm, kiến thức cộng đồng. Một vấn đề đáng chú ý về hoạt động còn thiếu nhiệt tình và chưa thực sự làm đúng chức năng và nhiệm vụ được giao; công tác tuyên truyền chưa thực sự hiệu quả, kiến thức của người dân rất hạn chế về công tác phòng chống dịch bệnh sốt xuất huyết; ý thức tự phòng bệnh như diệt bọ gây, vệ sinh môi trường xung quanh nhà của một số người dân còn hạn chế. Khu vực miền Nam số xã có hoạt động CTV triển khai trong năm 2010 tăng cao so với năm 2009, 2008 (giai đoạn không thuộc dự án mục tiêu Quốc gia) nhưng vẫn thấp hơn năm 2007, 2006 và không đạt chỉ tiêu dự án đề ra. Một số tỉnh vẫn duy trì sử dụng nguồn kinh phí do tổ chức AFAP (Úc) tài trợ để duy trì mạng lưới CTV song song với kinh phí đầu tư của Quốc gia như: Hậu Giang, Bến Tre, Vĩnh Long.Như năm trước, hoạt động phòng chống sốt xuất huyết của CTV ngày càng gắn liền chặt chẽ với công tác tổ chức chiến dịch diệt lăng quăng, xử lý ổ dịch và các đợt dập dịch diện rộng (nếu có), lồng ghép chung với các chương trình y tế khác của xã… góp phần cùng ngành y tế địa phương triển khai các hoạt động tuyên truyền, xử lý ổ véc tơ giúp chủ động PCSXH tại cộng đồng. Hiệu quả hoạt động của CTV năm 2010 thấp và không đạt chỉ tiêu dự án đề ra bên cạnh nguyên nhân hoạt động CTV chưa hiệu quả, phụ cấp chưa thỏa đáng với công bỏ ra, gián đoạn 2 năm không có dự án mục tiêu… thì công tác tổ chức, quản lý CTV của địa phương còn nhiều hạn chế: Ban chỉ đạo xã không có kế hoạch kiểm tra định kỳ hoặc kiểm tra không đạt chỉ tiêu Văn phòng dự án quy định (10% số CTV/xã điểm/tháng) hoặc thậm chí chưa từng kiểm tra định kỳ CTV hoặc kiểm tra chiếu lệ không có biên bản ghi nhận tiến trình kiểm tra, hoặc thành phần thu tuyển CTV có đến xấp xỉ 50% là chức sắc xã (Đảng/Chính quyền ấp, Hội Phụ nữ/Hội Nông dân, Tổ trưởng/Tổ phó Tổ Nhân dân tự quản) nên ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng vãng gia do kiêm nhiệm nhiều việc trong Chính quyền.
|
Cán bộ y tế phun xử lý ổ dịch sốt xuất huyết |
Phun xử lý ổ dịch sốt xuất huyết ở miền Trung trong năm 2010 dịch sốt xuất huyết đã xảy ra 10/11 tỉnh ở mức độ nhỏ hoặc trung bình, qui mô xã /phường, trong đó 3 tỉnh là Khánh Hòa, Phú Yên, Ninh Thuận đã công bố dịch. Các tỉnh đã nổ lực tập trung huy động nhân lực, vật lực để chống dịch nhưng do dịch xảy ra trên diện rộng cùng một thời điểm vì vậy nhân lực không đủ để tham gia xử lý dịch, luôn phải chạy theo đuôi dịch, cộng vớimáy phun thiếu, bị hư hỏng nhiều, kỹ thuật phun vẫn chưa đảm bảo; cạnh đó công tác diệt bọ gậy chỉ mang tính hình thức và cộng đồng chủ quan thụ động chưa nhận thức rõ trách nhiệm, tự giác diệt lăng quăng nên công tác chống dịch chưa đạt yêu cầu. Tây Nguyên nhiều ổ dịch xử lý muộn, không thực hiện công tác diệt bọ gậy, vệ sinh môi trường trước khi xử lý bằng hoá chất. Kỹ thuật phun chưa đúng do đội ngũ phun không được tập huấn đầy đủ, thiếu nhân lực.
Khuyến nghị
Trước tình hình SD/SXHD trong năm 2010 gia tăng và diễn biến phức tạp, nhiệt độ cao, mưa nhiều là điều kiện thuận lợi cho quần thể véc tơ sinh sản, phát triển. Vì vậy các hoạt động giám sát chủ động và phòng chống tích cực cần được tiến hành thường xuyên, duy trì liên tục và có hiệu quả. Giữ vững chiến lược và mục tiêu giảm mắc, giảm chết do SD/SXHD, Ban chỉ đạo các cấp cần tăng cường giám sát dịch tễ, kiểm tra và đôn đốc thực hiện tới tận tuyến xã, phường. Phát hiện sớm những trường hợp SD/SXHD mắc mới, xử lý kịp thời và ngăn chặn có hiệu quả đường lây truyền bệnh. Mở rộng, nâng cao hiệu quả diệt bọ gậy/lăng quăng tại cộng đồng thông qua hoạt động của màng lưới cộng tác viên, học sinh, quần chúng và các chiến dịch diệt véc tơ tại hộ gia đình, làm giảm quần thể véc tơ, ngăn chặn sự lan tràn dịch bệnh Tăng cường vai trò chỉ đạo và giám sát của BCĐ các cấp. Giao ban thường xuyên hàng tháng với mạng lưới cộng tác viên. Tâp huấn lại cho cộng tác viên về kỹ năng phát hiện, xử lý ổ bọ gậy, tuyên truyền giáo dục và vận động cộng đồng tham gia. Hiện nay hoạt động cộng tác viên mới bao phủ 10% số xã tỉnh loại A, 5% số xã tỉnh loại B, vì vậy các địa phương phải tăng cường huy động nguồn lực tại chỗ để hỗ trợ, củng cố mạng lưới này. Tiến hành điều tra ổ lăng quăng/bọ gậy để kịp thời điều chỉnh các biện pháp phòng chống phù hợp với từng địa phương cụ thể. Cân bằng giữa hoạt động giám sát, phát hiện bệnh nhân và hoạt động diệt lăng quăng/bọ gậy tại cộng đồng.
Tăng cường hoạt động giám sát bệnh nhân, huyết thanh, véc tơ, giám sát độ nhạy cảm của quần thể véc tơ với hoá chất diệt côn trùng, thống kê và báo cáo giám sát theo đúng thời hạn quy định. Phát huy năng lực phát hiện sớm, chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời, hạn chế sốc độ III&IV và cố gắng không để tử vong do SXHD. Duy trì hoạt động tuyên truyền giáo dục trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng đã được triển khai ở tất cả 63 tỉnh, thành cả nước. Hoạt động này cần tiến hành thường xuyên, liên tục dưới mọi hình thức. Tiếp tục cấp phát tài liệu tuyên truyền giáo dục như tranh, áp phích, tờ gấp, pa nô, tài liệu hướng dẫn, sổ tay, thời khoá biểu tới tuyến xã, phường và cộng đồng, phân phát đúng đối tượng, phát huy tối đa hiệu quả của phương tiện truyền thông.