Chiến tranh đã lùi dần vào quá khứ nhưng hiện nay tai nạn do bom mìn để lại thỉnh thoảng xảy ra gây nên những tai nạn thương tích cho người dân, đặc biệt là trẻ em ở một số địa phương bị ảnh hưởng nhiều của cuộc chiến.
Ngoài ra, một số tai nạn khác như nổ bình ga, nổ bình hạ thế điện, nổ trong một số vụ hỏa hoạn xăng dầu... cũng gây nên những đau thương, mất mát. Một trong số những thương vong gây nên do bom mìn, các loại vật liệu gây nổ là nạn nhân bị ảnh hưởng bởi hội chứng sóng nổ. Vậy hội chứng này có những đặc điểm như thế nào?
Đặc điểm hội chứng sóng nổ
Hội chứng nóng nổ là sóng chấn động hay sóng xung kích do mìn, thuốc nổ, bom đạn pháo cỡ lớn, bộc phá, thủy lôi; bình ga, bình hạ thế điện, các vụ hỏa hoạn xăng dầu... khi nổ tạo nên. Chúng di chuyển từ tâm vụ nổ ra các phía chung quanh với một lực áp suất rất cao. Áp suất và tốc độ của sóng chấn động giảm thấp dần khi di chuyển xa tâm vụ nổ. Đại lượng của sóng nổ được tính bằng kg/cm3, đại lượng này còn được gọi là xung lượng của sóng nổ. Trên cơ thể của các sinh vật, trong đó có con người, mức độ gây tổn thương do xung lượng sóng nổ quyết định. Với xung lượng 2kg/cm3, sinh vật bị tử thương; xung lượng từ 0,5 đến 1kg/cm3 bị tổn thương nặng; xung lượng từ 0,4 đến 0,5kg/cm3 bị tổn thương vừa; xung lượng từ 0,2 đến 0,4kg/cm3 bị tổn thương nhẹ. Các tổn thương do sóng nổ thường gặp ở phổi, cơ hoành, các tạng trong ổ bụng, não, màng nhỉ của tai... Sóng chấn động nổ còn gây ra các tổn thương thứ phát do những mảnh phá của bom mìn, gạch, gỗ, đá, đất, mảnh kính vỡ... Vì vậy nạn nhân ở gần tâm của sức sóng nổ có thể bị tổn thương do các tác nhân khác nhau.
Các tổn thương bệnh lý thường gặp
Hội chứng sóng nổ tạo ra từ các loại vũ khí gây nổ làm cho cơ thể con người bị tổn thương do sóng chấn động có áp lực cao và sóng chấn động làm luồng không khí di chuyển. Sóng chấn động có áp lực cao có tác động làm ép ngực, ép bụng, tăng áp lực không khí ở phế nang, hệ thống máu tĩnh mạch, thủng màng nhỉ của tai... Sau đợt cơ thể chịu tác động của áp lực cao là đến đợt áp lực thấp nên có sự thay đổi đột ngột của áp lực. Qua khảo sát giải phẩu bệnh học ghi nhận nạn nhân có hiện tượng chảy máu lấm tấm và tổn thương thành mạch máu ở não, dưới màng cứng; vỡ các phế bào, xẹp phổi, tràn khí phế mạc, chảy máu ở phế mạc, sung huyết nền phổi, phù phổi cấp; phù khí ở dưới da; chảy máu thành bụng, giãn ống tiêu hóa; dập rách các tạng như gan, lách; rách màng nhỉ, chảy máu tai trong; chảy máu dưới kết mạc mắt, thủy tinh dịch; có khi gây tắc hoặc vỡ các động mạch... Sóng chấn động làm luồng không khí di chuyển có thể hất tung người nạn nhân lên cao và ra xa; làm sập đổ hầm, nhà cửa... Vì vậy chúng còn gây nên các tổn thương cơ học thứ phát như gãy xương kín hoặc hở, sai khớp, vỡ tạng bụng kín, chấn động não...; bị va đập, ngạt thở do hội chứng vùi lấp, hội chứng đè ép chi thể kéo dài khi chi bị đất đá, tường nhà, cây đổ... đè ép lên.
Triệu chứng bệnh lý của hội chứng sóng nổ đơn thuần có thể chia làm nhiều mức độ khác nhau như mức quá nặng, mức nặng và vừa, mức nhẹ. Mức quá nặng có thể làm cho nạn nhân bị tử vong ngay tại chỗ do vỡ phổi, gan, lách. Mức nặng và vừa có thể làm cho nạn nhân bị bất tỉnh, cơ nhão, đồng tử mắt giãn rộng, phản ứng với ánh sáng kém; mạch đập yếu, thở khò khè, phản xạ thần kinh giảm. Khi nạn nhân tỉnh, có triệu chứng khó thở, tím tái, ho ra máu, có khi có đờm đầy bọt; máu chảy ra ở mũi, ở tai; đau ở ngực, bụng, lưng, cơ, chướng bụng; ù tai, điếc; huyết áp cao, mạch nhanh; thiểu niệu, mất ngủ, ăn uống kém... Ngoài ra có thể thấy hội chứng xuất huyết dưới màng cứng, phù phổi cấp; các hội chứng tổn thương ở các tạng trong ngực và bụng. Nạn nhân cũng có thể bị rối loạn tâm thần, liệt cơ, liệt nửa người. Mức nhẹ có thể làm cho nạn nhân bị choáng váng, đau ê ẩm, mất ngủ, điếc do thủng màng nhỉ, ức chế trên mức giới hạn của các cơ quan phân tích thính giác; nhức đầu, trí nhớ kém, rối loạn hệ thần kinh thực vật...
Phòng ngừa và xử trí sơ cấp cứu hội chứng sóng nổ
Khi có nguy cơ các vụ tai nạn có thể xảy ra gây nên hội chứng sóng nổ, cách phòng ngừa tốt nhất là cần bình tĩnh, nằm sát đất, xếp hai tay dưới ngực và bụng để làm giảm hoặc hạn chế sức sóng nổ truyền tới, hàm răng nên cắn chặt bằng một cái nút chai. Sau khi vụ nổ xảy ra, cần tổ chức cấp cứu đối với các trường hợp nạn nhân bị vùi lấp, đè ép, ngạt thở. Các nạn nhân bị sức ép đều phải được nằm yên, đầu đặt hơi thấp để làm thông đường hô hấp, tránh tình trạng tắc khí lên não. Nếu nạn nhân bị ngạt thở, phải nới cởi quần áo, tiến hành hà hơi thổi ngạt hoặc mở khí quản khi chống chỉ định thực hiện các động tác hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực vì nguy cơ phù phổi cấp. Cần lau sạch đờm dãi, động viên, an ủi nạn nhân; khám xét nhẹ nhàng, phong bế bằng novocain 0,25% ở thần kinh phế vị giao cảm cổ, quanh thân hai bên. Theo dõi tình trạng hô hấp và xử trí hiện tượng tràn khí phổi, tràn máu trong ổ phế mạc; theo dõi ổ bụng và nước tiểu, nếu có chảy máu bên trong hoặc tổn thương các tạng phải mổ cấp cứu ngay. Khi mổ nạn nhân, chú ý không gây mê tĩnh mạch mà dùng phương pháp gây tê kết hợp với thuốc phong bế thần kinh. Phải thận trọng theo dõi hiện tượng xuất huyết dưới màng cứng, phù não, khối máu tụ trong hộp sọ và xử trí phù hợp. Cần nhỏ thuốc sát trùng vào tai và mũi. Nếu nạn nhân bị sốc, mất máu; phải truyền tĩnh mạch huyết thanh ngọt ưu trương, insulin, chlorure calci, vitamin C, dung dịch phân tử lượng lớn, máu, thuốc trợ tim mạch... Các thuốc giảm đau nên dùng để xử trí là dolosal, diparcol, thuốc an thần. Trong sơ cấp cứu ban đầu và xử trí điều trị tại các cơ sở y tế, những cấp cứu viên và bác sĩ lâm sàng cần quan tâm đến hội chứng sỏng nổ này đối với nạn nhân bị tai nạn thương tích để có chỉ định xử trí một cách phù hợp nhằm giảm thiểu những biến chứng có thể xảy ra cho nạn nhân dẫn đến tử vong.